Hiển thị các bài đăng có nhãn KỶ YẾU 2011. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn KỶ YẾU 2011. Hiển thị tất cả bài đăng

MỘT THỜI TRẦN QUỐC TUẤN

Đặng Xu

      Đầu thập niên 60 của thế kỹ trước, tôi học Tiểu học ở Trường Tiểu học Nghĩa Hà, thuộc Huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng ngãi.Trường nằm phía đông cách Thành phố Quảng ngãi chừng mười cây số. Xã Nghĩa Hà hồi đó rộng lắm nay được chia thành bốn xã:Nghĩa Hà, Nghĩa Phú, Nghĩa An, Nghĩa Mỹ.
      Trường tôi học đẹp lắm,khuôn viên rộng được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai, bên trong là hàng keo dày kín xanh mượt, tiếp đến là hàng dừa thẳng tắp vây quanh. Sân trường phủ bóng mát của những hàng cây nhãn lồng đến mùa trĩu đầy quả mọng. Giữa sân trường là một dãy năm lớp học mái ngói đỏ tươi.Phía sau trường là một sân rộng, dùng làm sân chơi,tập thể dục thể thao. Đặc biệt trước trường có dòng sông êm đềm lững lờ chảy ngang soi bóng dừa xanh che nắng lối đi.
Hồi ấy học cùng lớp với tôi có anh Lê Quốc Ân, anh em chơi rất thân với nhau và cùng mê môn bóng bàn. Chúng tôi thường về nhà anh Ân căng dây trên tấm phản làm lưới đánh bóng say sưa. Vợt để đánh không phải làm bằng mút, chúng tôi xin mấy miếng gỗ thừa cưa ra làm vợt để đánh, tiếng kêu lốc cốc thật thú vị đến giờ chúng tôi vẫn không quên. Ở trường lúc bấy giờ chỉ có duy nhất một bàn bóng bàn rất tốt và đúng chuẩn, muốn đánh chúng tôi phải đi thật sớm để giữ chỗ bằng cách xếp thứ tự, và chờ đến phiên mình được vào đánh. Các bạn biết không, tưởng đâu chỉ có mình ghiền đánh bóng bàn, ai ngờ mấy thằng bạn cũng ghiền lắm nên có lúc chúng đi sớm lắm mình phải chờ dài cổ mới đến phiên. Nhờ luyện tập nên có lần nhà trương đã cử tôi với Ân đi thi đấu môn bóng bàn với các trường bạn và đã đạt giải mang thành tích về cho nhà trường.
Trường tôi học rất đông học sinh, đội ngũ Thầy ,cô giáo dạy rất giỏi, hết mực thương yêu, chăm sóc học sinh. Các thầy cô sang lắm, hầu hết đều có xe gắn máy nhất là xe mobylet, riêng thầy hiệu trưởng đã có xe vespa! Đời sống thầy cô sung túc lắm, nghe đâu ăn tiêu xong mỗi tháng còn sắm được một lượng vàng ròng.Chúng tôi coi thầy cô là thần tượng và mơ ước sau nầy sẽ trở thành thầy cô giáo.
Lúc học Tiểu học tôi thấy bạn nào cũng phấn chấn, hăng say, chăm chỉ, thi đua  học tập và đều có một ước mơ là làm sao thi cho đậu vào trường  Trần Quốc Tuấn. Không mơ ước sao được, vì toàn tỉnh chỉ có duy nhất trường Trần Quốc Tuấn là trường công lập. Vào học được trường Trần Quốc Tuấn là niềm tự hào và có điều kiện thẳng tiến đến tương lai .
Và rồi vào năm 1961, tôi thi đậu vào trường Trần Quốc Tuấn. Tôi không nhớ hết niềm vui sướng của tôi cùng gia đình vào cái ngày tháng ấy. Tôi được xếp vào lớp thất 7. Đây là một lớp đặc biệt vì có “hoa khôi” Nga Phước học cùng một lớp, một bông hoa rất đẹp, nhưng sớm lên xe hoa kết duyên cùng thầy Thọ dạy toán trong trường, làm anh em chúng tôi nuối tiếc vô cùng.
Những năm tháng học ở trường Trần QuốcTuấn là những năm tháng đầy ắp những kỷ niệm. Trong năm đầu chưa thuê nhà trọ học, tôi phải đạp xe đạp đi về trên 20 cây số mỗi ngày. Đường sá lúc đó xấu lắm vì được làm từ thời Pháp thuộc, những viên đá cuội nằm ngổn ngang, thỉnh thoảng lại gặp ổ gà, ổ vịt ngồi trên xe đạp mà như cỡi ngựa. Khổ nhất là đang đi xe bị trật sên phải xuống gá lại làm tay lấm lem dầu nhớt. Rồi lại thêm cảnh xe cũ nên thỉnh thoảng xe tuột con cóc phải xuống dộng xe mấy cái cho con cóc bung ra để đi tiếp. Đây là sự bực bội nhất và là cái khổ của những anh học sinh trường làng ra tỉnh học phải đi bằng xe đạp cũ.
Lần đầu tiên bước chân vào trường Trần Quốc Tuấn tôi vô cùng bỡ ngỡ, đúng là ngôi trường to đẹp với hai dãy trường ngói nằm hai bên, có nhà riêng của thầy Hiệu trưởng và khu thí nghiệm nằm ở phía nam. Sân trường được trồng các hàng cây long não mới lớn, lá xanh mơn mởn, thơm phức mùi dầu, thỉnh thoảng tôi lén hái mấy lá vò nát đưa vào mũi ngửi rất thơm. Sau mấy chục năm về lại trường làm giám sát tuyển sinh đại học, đi trên dãy hành lang tầng 3 tôi lại đưa tay hái mấy lá long não già vò nát đưa vào mũi ngưởi, lần nầy mùi hương ngạt ngào hơn, bỗng trong tôi dâng lên cảm xúc miên man khó tả. Tôi nhớ rất rõ bắt đầu vào học  đệ nhất cấp: thất,lục ngũ,tứ học sinh phải mặc đồng phục quần sọoc xanh, áo sơ mi trắng cụt tay, bảng tên thêu màu xanh nước biển, giày dép phải có quai hậu,học sinh thực hiện không đúng thầy Lụt, thầy Tiên làm giám thị không cho vào lớp mà còn ghi tên vào sổ theo dõi, kỷ luật nghiêm lắm. Học ở lớp dưới nhìn đàn anh học ở lớp trên đệ nhị cấp, bảng tên thêu màu đỏ chói, quần tây dài, áo sơ mi trắng dài tay trông “oách” vô cùng, tôi mong sao cho đến ngày được đeo bảng tên màu đỏ thắm ấy. Rồi tôi cũng được lên đệ nhị cấp, được xếp vào lớp B3.
    Trong những năm tháng học trường Trần Quốc Tuấn tôi rất tự hào được các thầy cô giáo tận tình dạy dỗ giúp đỡ tôi về mọi mặt,anh em bạn bè quý mến nhau. Qua các thế hệ nhiều anh chị thành đạt từ mái trường nầy và luôn nêu cao phẩm chất đạo đức làm người, xứng đáng là những cựu hoc sinh Trần quốc Tuấn.
    Hôm nay về lại trường Trần Quốc Tuấn, trường xây dựng to đẹp, khang trang hơn.Tôi tự hỏi các em hoc sinh bây giờ có hăng say,thi đua học tập như lớp học trò của chúng tôi ngày ấy hay không. Mong sao các em học giỏi hơn,chăm ngoan hơn, thành đạt nhiều hơn để xứng đáng là học sinh mang tên Trần Quốc Tuấn.

                                                                                   Đặng Xu

TÔI THẬT MAY MẮN

ĐẶNG THẾ THIÊNG



Tôi xa quê , tha phương cầu thực đã gần 40 năm. Mỗi lần về quê, đi ngang qua những nơi đã từng gắn bó với tuổi thơ của mình, những ký ức thuở xưa lúc nào cũng trổi dậy mạnh mẽ. Do thời cuộc, những ngôi trường tôi đã học ở bậc Tiểu học và Trung học đệ nhất cấp ở quê nhà bây giờ không còn nữa, nên trường Trung học Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi luôn luôn là nơi tôi thích ngắm nhìn nhất, mỗi khi có dịp quay về.

Sau khi học xong lớp đệ Tứ trường Trung học Bán công Nguyễn Công Trứ Mộ Đức và thi đậu Trung học đệ nhất cấp niên khóa 1963-1964, tôi cùng một số bạn khác của trường Trung học Bán công Nguyễn Công Trứ được vào thẳng lớp đệ Tam trường Trung học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Khỏi phải nói ai cũng biết niềm vui mừng khôn xiết cùng những hoang mang lo lắng đến chừng nào của tôi. “Học sinh Trần Quốc Tuấn” là niềm mơ ước của biết bao nhiêu học sinh thời ấy của đất Quảng quê mình. Và tôi nghĩ rằng tất cả cựu học sinh của ngôi trường thân yêu ấy cũng như tôi, luôn luôn tự hào và luôn giành cho nó một chỗ đứng thích đáng trong  tim.
Tôi không có được niềm vui thi đậu vào lớp đệ Thất trường Trần Quốc Tuấn như phần đông các bạn khác được học tập tại đây suốt bảy năm. Gia đình tôi nghèo quá, không thể lo cho tôi trọ học nếu tôi phải đi học xa nhà, dù là học trường công. Khi học xong bậc tiểu học tại trường Tiểu học quận Mộ Đức, gia đình tôi đã dự định cho tôi nghỉ học ở nhà làm ruộng. Thực ra gia đình tôi cũng không có ruộng để làm, may ra thì tôi có thể đi chăn trâu thuê cho các nhà khá giả mà thôi. Nhưng cái may lại đến với tôi trong việc học tập vì 2 lý do: Thứ nhất là kết thúc bậc Tiểu học, tôi chỉ xếp sau bạn Trần Đình. Năm đó, các bạn cùng lớp như Trần Đình, Bùi Công Sơn, Trần Thị Minh Tánh, Lê Đức Ích, Lê Văn Hương,… thi đậu vào lớp đệ Thất trường Trần Quốc Tuấn khá nhiều nên cha mẹ tôi rất tiếc khi phải cho tôi nghỉ học; thứ hai là đúng vào năm học ấy ( 1960-1961) thì trường Trung học bán công Nguyễn Công Trứ Mộ Đức dời về cơ sở mới chỉ cách nhà tôi hơn 1 cây số. Thế là cha mẹ tôi quyết định cố gắng cho tôi học tiếp vì hàng tháng chỉ ráng lo cho tôi 120 đồng để đóng học phí chứ không phải tốn tiền trọ học xa nhà ( hình như các bạn quê tôi ra tỉnh đi học thì riêng việc trọ học đã phải đóng mỗi tháng 200 đồng và 60 lon gạo, hoặc 400 đồng, chưa kể các chi phí khác.)
Được vào học trường Trần Quốc Tuấn sau các bạn khác nên tôi chắc rằng niềm vui của tôi lớn hơn các bạn rất nhiều . Niềm vui là như thế, nhưng nỗi lo còn lớn hơn vì lấy đâu ra 400 đồng để lên tỉnh trọ học hàng tháng? (Ttrong suốt 3 năm học từ đệ Lục đến đệ Tứ tại trường Nguyễn Công Trứ, tôi may mắn được nhà trường cấp học bổng 1.800 đồng/năm, thông qua sự bầu chọn của các bạn cùng lớp. Học bổng này được lãnh sau mỗi kỳ thi lục cá nguyệt. Nhờ đó, tôi có đủ tiền đóng học phí cho đến hết bậc trung học đệ nhất cấp). Xin nói lại lần nữa là gia đình tôi quá nghèo, gạo cơm thiếu trước hụt sau, thức ăn chủ yếu quanh năm là rau muống luộc và mắm cái thì số tiền 400 đồng (tương đương với 4 gánh lúa ) dành riêng cho một mình tôi trong một tháng với gia đình có 5 nhân khẩu như thế là quá lớn . Nhưng một lần nữa, người cha kính yêu tuyệt vời của tôi lại kiên quyết  cho tôi tiếp tục đi học. Ông nói: “Cứ cho nó đi học, được năm nào hay năm ấy, được ngày nào tốt ngày ấy”. Người ta thường nói cái may không đến 2 lần, nhưng điều này lại không đúng đối với tôi: tôi luôn gặp may. Suốt 3 năm học tại trường Trần Quốc Tuấn, tôi lại tiếp tục được nhận học bổng 1.800 đồng/năm. Ngoài ra, tôi chỉ phải lo tiền ăn học cho đến giữa năm lớp đệ Nhị. Từ cuối năm lớp đệ Nhị và năm học lớp đệ Nhất, tôi ăn ở miễn phí tại nhà anh rể tôi. Lúc đó, anh là giáo viên Tiểu học, đã chuyển từ Mộ Đức ra dạy học tại trường Tiểu học xã Tư Bình, quận Tư Nghĩa và thuê nhà, đem cả gia đình ra ở tại xã Tư Chánh.Tuy anh chị tôi chẳng khá giả gì vì phải lo cho 1 đàn con đông đúc nhưng cũng ráng cưu mang tôi.
Tôi hơi dài dòng về các cơ may để tôi có được cái vinh dự và niềm tự hào là học sinh trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi.
Ngoài nỗi lo về cơm áo gạo tiền, tôi còn lo mình là học sinh vùng quê, ra tỉnh thì làm sao học kịp các bạn ở tỉnh thành. Nhưng rồi những lo lắng cũng qua đi, tôi đã nhanh chóng hòa nhập được với môi trường mới. Bạn bè, các thầy cô lần lượt trở thành thân quen. Biết bao kỷ niệm với Thầy, Cô , bạn bè còn mãi trong tôi đến tận bây giờ . Có những kỷ niệm ngọt ngào đáng nhớ, cũng có những kỷ niệm chua lòm chua loét nên quên đi,  nhưng trớ trêu thay, những điều nên quên lại là những điều mình nhớ dai nhất. Tôi xin kể ra đây một trong vô vàn kỷ niệm đó:
Niên khóa 1966-1967, trường Trần Quốc Tuấn của chúng mình có một lớp đệ Nhất ban C, 2 lớp đệ Nhất ban A và 3 lớp đệ Nhất ban B. Tôi học lớp đệ Nhất B3 cùng một số bạn như: Tạ Vĩnh Ảnh, Trần Đình Lãnh, Hoàng Đình Lãnh, Trần Nhẫn, Vũ Quang Ngô, Vũ Thị Phượng, Trần Minh Tâm, Nguyễn Cư Trinh, Lâm Quang Trọng, Nguyễn Thái Uyên,… Vì học ban B nên hầu hết chúng tôi chỉ chú tâm học thật tốt hai môn Toán và Lý-Hóa vì thi Tú tài phần 2 ban B thì chỉ 2 môn Toán và Lý-Hóa đã chiếm 9/16 hệ số của tất cả 7 môn thi. Vì thế các môn học khác thì tôi cũng có hơi chểnh mảng.
Vào đầu một buổi học của năm đệ Nhất đáng nhớ đó, lớp tôi có giờ Pháp Văn của thầy Trần Văn Giao. Phòng học của lớp nằm ngay cạnh văn phòng của dãy nhà phía Nam. Không biết vì lí do gì mà thầy Giao vào lớp trễ và vì thế nên khi thầy vào thì cả lớp đứng dậy chào có vẻ uể oải làm cho Thầy giận, thầy quay ngoắc trở ra. Tôi cho rằng Thầy lên văn phòng luôn nên vội vàng ngồi xuống, và thật bất ngờ,, Thầy cũng cực kỳ nhanh chóng quay vào ngay. Thế là Thầy bắt quả tang tôi đang ngồi. Có lẽ không phải tôi là người duy nhất ngồi xuống nhưng xui xẻo cho tôi vì tôi ngồi bàn đầu, cạnh cửa ra vào nên bị phát hiện nhanh nhất. Ngoài ra, tôi lại là Trưởng lớp nữa nên trăm dâu đổ đầu tằm. Thầy phạt tôi với hình phạt rất nặng nề mà có lẽ cả lớp chúng tôi chẳng ai ngờ tới: đuổi học 2 tuần. Tôi như bị sét đánh ngang tai khi nghe Thầy tuyên án phạt, nhưng khi nhìn vẻ mặt giận dữ của Thầy thì tôi hiểu rằng chuyện thanh minh và xin giảm án chỉ là vô ích. Tôi lặng lẽ ôm tập ra về. Nên biết rằng, án phạt đuổi học 2 tuần là án nặng nhất trong loại hình phạt đuổi học có thời hạn . Theo quy định thì án phạt này bị ghi vào học bạ khiến tôi vô cùng lo lắng. Trong quá trình học tập, tôi đã từng bị phạt nhiều lần nhưng chưa bao giờ bị đuổi học dù chỉ một phút chứ nói chi đến 2 tuần. Sau 2 tuần bất đắc dĩ được ở nhà, ngay buổi đầu tiên đi học trở lại, tôi bị gọi lên văn phòng.Vừa bước vào cửa, thoáng thấy thầy Giám học Lý Minh Trai, tôi nghĩ phen nầy thì “chết” là cái chắc. Tuy nhiên, sự lo lắng mau chóng qua đi khi nhìn thấy vẻ mặt thân thiện của thầy Trai. Tuy thầy Trai không dạy tôi nhưng thầy cũng biết tôi và thầy ôn tồn hỏi tôi đầu đuôi sự việc .Tôi thành thật trình bày và xin thầy xóa án cho ,Thầy Trai đồng ý và thông báo qua phòng Giám thị xin xóa án cho tôi.Thật là hú vía ! Tôi lại gặp may lần nữa.



                                                         Cần Thơ, ngày 13 tháng 11 năm 2011
                                                                      ĐẶNG THẾ THIÊNG
                              67 CMT8, P. An Thới, Q. Bình Thủy, TP.Cần Thơ.
                                                                          ĐT: 0989217771
Email: dtthieng@yahoo.com

NĂM NGƯỜI BẠN TRÊN 800 CÂY SỐ

Nguyễn Thị Mỹ Anh




Tôi chỉ mới  bắt đầu nói ra điều ước thứ nhất sau nhiều chục năm dài nhốt mình trong văn phòng máy lạnh cặm cụi làm việc, không đi thăm viếng bạn bè xa:
-          Lâu quá mình không gặp lại anh Thông và chị Châu, ước gì mình sắp   xếp được một chuyến đi thăm hai anh chị.
thì lập tức  tôi có ngay được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của chị Hà Kim Anh, hai anh em nhà họ Dương -  Anh Minh Chính, anh Mộng Hổ, và  một vị khách mời “đặc biệt”: anh Dũng - tuyệt vời cứ như là phép mầu của bà Tiên trong truyện cổ tích đã đọc lúc còn bé.
Gọi là khách mời “đặc biệt” vì anh Dũng thường hãnh diện  khoe với mọi người rằng anh là “rể” Trần Quốc Tuấn. Tôi không biết Ngài Hưng Đạo Vương có thấy thú vị khi chấp nhận anh là “rể” của Ngài không, nhưng tôi chắc chắn một điều là  anh Dũng rất yêu vợ, và vì thế anh yêu cả… Ngài Hưng Đạo Vương cùng đám con cháu Ngài, là chúng tôi, những người trong giòng họ của … vợ anh.

Năm người chúng tôi khởi hành ngày thứ Bảy, năm 2011. Thật khó để mà một kẻ chỉ biết tiêu dùng thời gian suốt đời của mình một cách hậu hĩ cho chuyện học hành và làm việc như tôi lại có thể nhớ được chính xác ngày tháng cho những sự việc xảy ra trong đời mình, nên tôi chỉ có thể nhớ là 5 chúng tôi đã có một chuyến đi thú vị và rất ý nghĩa vào một ngày thứ Bảy năm 2011. Xin các bạn chớ  phiền trách tôi về chuyện lơ đãng này. Một khi chúng ta thấy vui khi có bạn bè bên cạnh thì đó là một khoảnh khắc bất tử, vậy chúng ta cần nhớ đến ngày tháng, nơi chốn làm gì, hôm qua hay hôm kia, nơi này hay nơi khác, niềm vui có khác gì nhau?

Sau những chuỗi ngày mưa bão nối nhau liên tiếp, hôm ấy trời nắng đẹp. Cậu tài xế ngủ quên nên hai chị em tôi kể đủ thứ chuyện “hồi xưa” trong lúc chờ xe vẫn chưa thấy xe đến đón. Để bù lại thời gian đã bị trễ,  anh Chính cứ đi bộ tà tà từ chợ Bà Chiểu đến tận nhà anh Hổ. Có một chút kẹt xe trên đường lúc sáng sớm. Cái điện thoại trên tay tôi reng liên tục thúc giục : mọi người tới đâu rồi?.
Rốt cuộc, chuyến đi cũng bắt đầu và ai cũng thấy chuyện khởi hành trễ là … “chuyện nhỏ như con thỏ”, theo cách nói tuổi teen Việt Nam bây giờ.
Một chuyến xe khởi hành trễ vì cậu tài xế ngủ quên, một hành khách phải đi bộ trên 2 cây số mới được lên xe, hai “bà cụ” trên 60 tuổi ngồi chờ xe rất lâu, nhưng niềm vui vẫn tràn trề và thời gian vẫn rộn rã.
Tôi là người vui nhất. Vì điều ước thứ nhất đã được thực hiện: một chuyến đi xa thành phố với những người bạn mình quý mến, được gặp hai người bạn cũ rất nổi tiếng trong thế giới tuổi học trò ngày xưa với một mối tình lãng mạn, sâu sắc, gắn bó, cho tới bây giờ vẫn được kể lại với sự ngưỡng mộ, lại được gặp thêm những người bạn mới  “hoành tráng” của anh Chính giới thiệu. Nhất định,  tôi sẽ có dịp biết thêm về những điều thú vị của từng những mảnh đời riêng lẻ trong cuộc sống bao la này.

Nơi chúng tôi dừng nghỉ chân đầu tiên là một “thế giới”. Vốn là kẻ lơ ngơ ít ra đường, tôi không xác định được cái “thế giới” này nằm ở quãng nào trên chặng đường dài từ SG đi Đà lạt. Tôi chỉ biết gọi nó cái tên “thế giới” vì đó không phải là một túp lều, một căn nhà, một biệt thự, một mảnh vườn, một tòa lâu đài, một khu rừng, mà nó là tất cả - là “thế giới”- chứa rất nhiều vật dụng từ cổ đại đến hiện đại: chiếc điện thoại cổ của thế kỷ 17, những đồ mỹ nghệ nhỏ xíu chạm trổ tinh xảo… Anh Chính giới thiệu chủ nhân của “thế giới “ này với chúng tôi - anh Năm. Trong bộ quần áo làm vườn và chiếc nón Mexico rộng vành của những chàng cao bồi miền Viễn Tây xa xưa,  trông anh Năm rất hợp với cái vẻ bạt ngàn của đất, của cây cối , của những tảng đá to lớn đủ hình dáng, và của không khí thoang thoảng mùi hương núi rừng nữa.

Tôi chú ý đến hai con cá nặng 70kg được nuôi trong một cái hồ nhỏ. Tôi đứng tần ngần nhìn chúng rất lâu. Tôi  không thể gọi chúng là cá - mặc dù khi bé tôi đã từng được theo ba tôi ra khơi trên tàu đánh cá biển Thuận An, và đã từng thấy những con “cá ông” lớn hơn chúng rất nhiều. Đó  mới chính là những con cá, được tự do vẫy vùng ngang dọc giữa đại dương, bơi vun vút như tên phóng trên mặt biển rộng mênh mông…Còn ở đây, trong cái hồ nhỏ này, đôi bạn bơi chậm chạp, uể oải, lười biếng, ngay cả những cái quẫy đuôi cũng yếu ớt ,lề mề như đang trông ngóng được trở về biển cả ngày xưa. Chúng làm tôi nhớ đến những cụ già trong viện dưỡng lão - cô đơn, chậm chạp, uể oải, chờ đợi một ngày nào đó con cái sẽ đưa mình về lại nơi  mình trước kia đã từng sống cả một cuộc đời.
Tôi dè dặt hỏi anh Năm:
-          Rồi chúng nó sẽ ra sao?
Anh Năm ngần ngừ đôi chút rồi đáp:
-          Tôi cũng chưa biết, có người khuyên tôi đem phóng sinh chúng ở hồ chùa Trúc Lâm nhưng tôi chưa tính được.

***
Căn nhà xinh xắn trông như một tổ chim bồ câu của anh chị Thông - Châu nằm sâu phía dưới đường cái khiến tôi nhớ đến dốc Nam Giao – Huế. Trước sân nhà nhìn xuống một thung lũng trồng trà và cà phê. Bước ra khỏi xe, tôi lập tức được bao quanh bởi một mùi hương tự nhiên quen thuộc, hỗn hợp của cây cối trong những chuyến picnic vào rừng ngày còn bé. Trên bàn , thức ăn đã bày ra sẵn sàng, thơm phức, khiến tôi thấy bụng đói cồn cào. Thế là sau khi chào hỏi cả nhà, tôi ngồi sà xuống bàn ăn ngay , không khách sáo chút nào cả . Chị Châu đã chu đáo chuẩn bị cho tôi vài món chay.
Vừa nhâm nhi mấy món ăn , tôi vừa đưa mắt ngắm nghía chung quanh. Chị Châu vẫn giữ nét đẹp nhí nhảnh hồn nhiên của ngày xưa. Anh Thông lấy ống điếu thuốc lào ra, nhét thuốc vào, châm lửa và rít một hơi dài rất thành thạo. Tôi ngạc nhiên bật cười thú vị. Anh Thông đã hoàn toàn thay đổi thành một người khác so với những gì còn đọng lại trong ký ức tôi hiện nay. Họ ngồi bên nhau trong bàn ăn, đôi mắt nhìn nhau vẫn … tình tứ như một cặp tình nhân dễ thương của mấy chục năm về trước. Trong trí tôi hiện ra một chị Châu trắng trẻo, mũi dọc dừa, tóc buộc đuôi ngựa lúc lắc theo bước chân đi. Một anh Thông thư sinh, nhiều tài văn thơ, hội họa, nổi tiếng với câu phát biểu mang đầy khí phách rất … lãng tử:
-          Khi đất nước hòa bình, tôi sẽ không cần đi học, xé hết sách vở, và rong chơi từ Bắc chí Nam.
Giờ đây, anh chị đang ngồi trước mặt tôi, với những ngày bình yên và hạnh phúc trong  màu xanh bát ngát bao quanh nhà - vườn cà phê và trà, những luống rau thẳng hàng - trong một không khí ấm áp thân ái của truyền thống đại gia đình cổ xưa: tứ đại đồng đường, mà nhiều người trong bạn bè chúng tôi, vì những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử khiến những thành viên trong một đại gia đình đã phải chia lìa kẻ Đông, người Tây…


Tưởng chúng tôi sẽ ở lại nhà anh chị để uống rượu ngâm thơ dưới trăng như những hàn sĩ ngày xưa, nhưng sau khi dạo quanh vườn nhà một vòng, một ai đó trong bọn bỗng kêu lớn với giọng đầy vẻ phấn khích :
-          Sao chúng ta không mời cả hai ông bà … chạy thẳng lên Đà lạt “du hí” một vòng rồi mai về lại SG hê?

Mọi người đồng thanh : phải đấy, phải đấy. Hình  như ai cũng cảm thấy thời gian dành cho anh chị vậy là “đủ “ rồi. Cái tổ chim bồ câu này đã quá hạnh phúc rồi , chúng tôi không cần ở lại quá lâu!
Và thế là anh Thông được chị Châu “cấp hộ chiếu” đi Đà lạt chơi với nhóm chúng tôi. Cuộc hành trình thứ hai bắt đầu trong ánh nắng đã dịu xuống, và buổi chiều đang chậm rãi đến gần.

Đang nhắm mắt mơ màng trên xe nghe mọi người nói đủ thứ chuyện ngày xưa, đột nhiên tôi nghe tiếng anh Dũng reo lên như vừa phát minh ra điều gì thú vị lắm:
-          Nè quý vị, mình có một ông bạn, ngày xưa là hàng xóm, bây giờ lên đây, mở trang trại, bọn mình tiện đường ghé vào nhà “hắn” uống một ly nhé?
Tôi tặc lưỡi:  Ừ, đi thì đi, chẳng có gì phải chọn lựa nơi này hay nơi khác để vui cả. Chiếc xe này đang chở 6 hành khách vô tư, rảnh rỗi, chẳng có việc gì để làm, đi đâu lại chẳng được?

Thế là anh Dũng và anh Chính cùng rút điện thoại trong túi ra, tranh nhau a-lô, hào hứng thiết kế thêm những “show”  mới ngoài dự tính. Bốn người còn lại chỉ còn việc … ngồi yên trên xe, mặc cho 2 đạo diễn sắp xếp và mặc cho tài xế muốn lái xe đi đâu thì đi. Tôi nhắm mắt lại ngủ gà ngủ gật trên xe, từ sáng đến giờ mãi vui tôi quên cả nỗi mệt nhọc đi đường.

Trời tối dần cho đến khi ánh mặt trời tắt hẳn mà chiếc xe chở chúng tôi vẫn loay hoay trong khu rừng trùng trùng điệp điệp. Qua cửa kính xe, bóng những cây thông sừng sững lờ mờ trên đồi cao hai bên đường. Anh Dũng và anh Chính vẫn giòn giã nói chuyện qua điện thoại:
-          Tới chỗ ông chỉ đường rồi nè, đi tiếp sao đây?
-          Còn bao nhiêu cây số nữa?
-          Cây cầu ra sao?
-          Thấy hàng rào sắt sơn trắng là rẽ vào hả ?
-          Ừ, khoảng 8 giờ tụi tôi tới Đà Lạt uống cà phê với ông.
-          Nhớ đăng ký dùm tui hai phòng ở resort Thung lũng Vàng nghe…

Rồi tôi nghe tiếng anh Chính càu nhàu:
-          Cái “thằng cha” này chỉ đường kiểu gì mà kỳ cục quá , đi hoài không tới , nhất định “thằng chả” không phải là dân kỹ sư.

Tôi thích thú mỉm cười một mình trong bóng tối. Lần đầu tiên tôi nghe đến cái  khái niệm không phải dân kỹ sư thì không biết cách chỉ đường…

Cuối cùng rồi cái hàng rào sắt sơn trắng đã hiện ra trong ánh đèn xe. Từ xa, căn nhà trông giống như một tòa lâu đài rực rỡ ánh sáng, nằm khuất trong rừng sâu, dưới chân một ngọn đồi nhỏ. Con dốc từ đường xuống tới sân nhà dài cả trăm mét và thắng đứng như vách núi. Cả bọn xuống xe đi bộ khi nhìn thấy cái dốc cao vời vợi như thế. Chiếc xe và cậu tài xế lăn bánh từ từ… Tôi hồi hộp hết sức…
Chủ nhân cùng cô cợ trẻ với hai chú bé mặt mũi kháu khỉnh đã đứng sẵn trên hiên nhà đón khách. Một bàn tiệc đã bày sẵn. Không biết vì gia đình chủ nhân rất hiếu khách hay vì hiếm khi các vị khách đến tận tòa lâu đài này mà trông ai cũng rộn rịp, lăng xăng sắp xếp đón tiếp chúng tôi. Tôi mỉm cười vẫy tay chào hai chú bé. Con chó nằm ở cửa vẫy đuôi vui vẻ sủa chúng tôi vài tiếng. Không khí thật dễ chịu. Chủ khách lại mời nhau chén chú chén anh.
Sau đó anh Dũng tách ra đi chơi với bạn, còn 5 chúng tôi lên Đà Lạt để uống trà và nói chuyện … Thiền định, với một người bạn của anh Chính, anh Trần Đình Lãnh - cũng là một cựu học sinh Trần Quốc Tuấn.  Theo dự tính, 5 chúng tôi sẽ nghỉ đêm lại resort Thung Lũng Vàng để sáng sớm hôm sau được đón bình minh tại thung lũng.

Thật là thiếu sót nếu tôi không nhắc đến cái quán cà phê rất ấm cúng nằm trên con đường yên tĩnh và sạch sẽ đó. Do mải mê ngắm cảnh và tham lam hít thở không khí trong lành thiếu thốn lâu nay, tôi lại chẳng thể nhớ được tên quán cà phê và con đường. Tôi chỉ biết lúc ấy trời se se lạnh. Trên đường phố các cô gái vẫn mặc váy ngắn. Tôi thật sự yêu thích bầu không khí tĩnh mịch trong quán. Những cặp tình nhân thầm thì nói chuyện. Vài bàn đông khách vẫn không ồn ào. Chính chúng tôi mới là nhóm người duy nhất gây ra tiếng ồn ở đó.
Anh Lãnh, bắt đầu câu chuyện từ một câu hỏi của chị Kim Anh:
-          Anh bắt đầu ngồi Thiền từ lúc nào?
Chị Kim Anh và tôi chắm chú lắng nghe anh nói về đạo Phật, về Thiền định. Anh Chính tò mò nhìn hai chị em mím miệng cười cười.  Anh Hổ im lặng lơ đãng đưa mắt nhìn khung cảnh chung quanh quán. Anh Thông có vẻ sốt ruột nhất, đứng lên đi đến một bức tranh lớn treo trên vách ngắm nghía.
Rời khỏi quán cà phê, xe đưa chúng tôi đến Thung Lũng Vàng.
Phải mất 30 phút chờ resort sắp xếp, chúng tôi mới được thông báo: chỉ còn một phòng lớn cho khoảng 7 người, mặc dù anh Chính đã đăng ký 2 phòng trước khi đến. Và thế là cả bọn kéo nhau vào căn phòng cuối cùng còn sót lại của resort. Thật ra, đây là một căn hộ nhỏ dành cho các gia đình ít người đi nghỉ mát, có phòng khách, phòng ngủ, bếp và toilette riêng biệt. Hai chị em tôi vào phòng ngủ, ba vị còn lại trải nệm nghỉ ở phòng khách.
Anh Chính còn ráng nói đùa khi mắt mọi người đã ríu lại:
-          Chuyến này về Sài gòn “mấy chả” sẽ đồn tui với mấy bà đi Đà Lạt ở chung phòng.
Mọi người phá lên cười thú vị. Mà đúng là chuyện “ở chung phòng” ở lứa tuổi trên 60 này cũng  ngộ nghĩnh thật.

Mới 5 giờ sáng, điện thoại đã reng dồn dập. Tôi mắt nhắm mắt mở, giọng còn ngái ngủ:
-     Good morning.
Tiếng trả lời lao xao:
-          Dậy, dậy, đón bình minh.
Tôi tỉnh ngủ hẳn. Đón bình minh tại một thung lũng! Thật là hào hứng.

Khi tôi bước ra sân,  sương buổi sáng long lanh khắp nơi: trên những chùm hoa mimosa màu tím, trên đám cỏ  dưới chân tôi,  trong tiếng chim hót vang trên những ngọn cây, và cả trong làn không khí tươi mát nữa. Tôi “ngửi”  thấy mùi sương trên từng bước đi làm khuấy động sự tĩnh lặng của buổi sáng.

Cả nhóm dừng chân ở một góc đồi nhìn xuống con sông lấp lánh ánh vàng. Anh Chính nói:
-          Tôi hát một bài tặng mọi người nhé.
Và anh cất cao giọng:
“  …tôi vẫn chờ em dưới gốc sim già đó, hái dâng người một đóa đẫm tương tư. Đêm nguyệt cầm…”

Ngôn từ trong bài hát thật đẹp. Hóa ra, với Vũ Đức Sao Biển, giọt tương tư cũng giống như hạt sương, rất mong manh, đã từng đọng trên những cánh hoa của những gã si tình hái tặng người yêu. Tôi thấy mình thật đáng trách khi quá đỗi vô tình nhận những bó hoa mà không hề nhìn thấy hạt sương long lanh  trên đó.

Tôi chăm chú nhìn các bạn.  Anh Thông đang cúi đầu nhìn xuống chân mình. Chị Kim Anh ngồi im lặng trên chiếc ghế đá với vẻ mặt đăm chiêu. Anh Hổ trầm ngâm đứng bên gốc phù dung. Có lẽ các bạn tôi đang hình dung đến những đóa hoa sim đẫm tương tư của một  thời áo trắng nơi quê nhà?

Khoảnh khắc này thật quá đỗi tuyệt vời!

Tôi tự hỏi : có phải những năm tháng bị thất lạc bạn bè do thời cuộc đã hoàn toàn đi qua…?

Nguyễn thị Mỹ Anh
(Niên khóa 1961 – 1968)

DẦM MƯA CẢ NGÀY

Vera Nguyễn




Mười bảy tuổi, tôi về lại trường Trần Quốc Tuấn làm cô nữ sinh áo trắng của lớp cuối cấp trung học: lớp Đệ Nhứt B1. Mười bảy bẻ gãy sừng trâu, nhưng tôi mảnh khảnh qua cầu gió bay, nên Ba tôi thường trêu tôi:
-          Ba thấy con cũng hay bẻ gãy … bánh sừng trâu của lò bánh mì gần nhà thơm lừng mùi bơ Bretel đấy chứ!

Sau buổi chào cờ và giờ học đầu tiên của ngày khai giảng, tôi cùng Xuân Hoa và Mỹ Linh rủ nhau đi lang thang trên đường phố Quang Trung trong cơn mưa phùn lất phất. Trong trí mỗi người vẫn còn lờ mờ những hình ảnh vừa ghi nhận vội vã - các vị giáo sư cố vấn mới, hai hàng cây khuynh diệp thoang thoảng hương, đông đúc những khuôn mặt con trai khắc khổ trái ngược với nụ cười tinh quái luôn nở trên môi, sân trường rộng mênh mông, bài diễn văn hùng hồn của thầy Hiệu Trưởng...
Trời se se lạnh. Buổi sáng vẫn chưa hết, và chúng tôi cũng chưa muốn về nhà vội. Những con đường vắng vẻ bỗng nhộn nhịp hẳn lên với những chiếc áo lạnh đủ màu rực rỡ và những tà áo dài trắng điệu đàng lay nhẹ trong cơn gió đầu Thu.
Tôi ngâm khe khẽ hai câu thơ của ai đó không nhớ:
Tôi mười bảy tuổi buồn chưa?
Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày.
Hai cô bạn đi bên cạnh tôi phá lên cười tinh nghịch:
-          Chỉ có mi là 17 “chớm” thôi ngốc ạ, đa số tụi tau đã 17 “cộng” rồi.

Tiếng cười trong trẻo của họ gợi lại cho tôi nỗi ngậm ngùi luyến tiếc dư âm chuỗi ngày đầm ấm với bạn bè khi còn ở Nữ Trung Học – Tôi nhớ những buổi sáng đến trường, tiếng khua lốc cốc của đôi guốc mộc mua ở tiệm guốc ông Lê, tiếng leng keng của chiếc lon sữa bò bị tôi đá lăn theo bước chân trên suốt chặng đường đi, tiếng cây kìm và nắm đinh chạm vào nhau lao xao trong chiếc cặp táp màu đen của tôi, khiến cho không gian bao quanh tôi lúc nào cũng vang lên những âm thanh rộn rã. Rồi những buổi trưa hè, hai vạt áo dài vải được buộc túm lại để tôi hồn nhiên nhảy lò cò dưới gốc phượng vĩ đỏ rực có tiếng ve kêu inh ỏi…
Tôi đã lớn lên với tuổi thơ đầy ắp âm thanh và tự do tuyệt đối dưới mái trường Nữ Trung Học cùng đám bạn gái nghịch như quỷ sứ, xứng danh “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba ...”

Thế mà chỉ sau 3 tháng nghỉ hè mọi thứ đều trở thành quá khứ. Khi biết tôi và các bạn gái sẽ được chuyển đến trường Trần Quốc Tuấn học tiếp lớp đệ nhất, Mẹ tôi đã luôn nhắc nhở tôi với nụ cười “bí ẩn” trên môi:
-          Sang “bên đó” con phải ý tứ, đi đứng từ tốn, nói năng nhỏ nhẹ, con gái không được nhảy nhót , rượt đuổi, la hét om sòm...
Tôi thắc mắc nhưng không dám hỏi lại:
-          “Bên đó” có gì mà mình không còn được tận hưởng tuổi thơ với âm thanh và tự do tuyệt đối nữa?

Tôi nhắm mắt lại, ngước mặt hứng những hạt mưa li ti tuổi mười bảy tinh khiết lăn chầm chậm trên làn da thiếu nữ mịn màng -  tuổi mười bảy không còn trẻ thơ, nhưng chưa  thể là người lớn - tình yêu , tình bạn đan xen mơ hồ lẫn lộn và còn ở tận đâu đâu… Khi tôi mở mắt ra, qua làn mưa mỏng, tôi bắt gặp bên kia đường, một đôi mắt sáng với hàng chân mày rậm, đang đăm đăm nhìn sang tôi. Tôi nghe có tiếng cười chế diễu vang lên trong tia nhìn đó. Đôi chân tôi bỗng dưng luống cuống, ngập ngừng bước chậm lại. Bất giác, tôi nhớ lại lời mẹ tôi dặn và hiểu ra vì sao mẹ tôi bảo sang “bên đó” tôi sẽ không còn được cột hai vạt áo dài lại với nhau để vừa đi vừa chạy nữa.

Ba chúng tôi rẽ vào nhà sách Thanh Tịnh. Đã có nhiều áo dài trắng và đồng phục nam sinh chen kín tiệm sách. Có lẽ họ cũng nghĩ như tôi, buổi sáng đầu năm học vẫn chưa hết, cơn mưa phùn đầu năm học lại quá đỗi dịu dàng, nên không ai muốn vội vã về nhà. Ai cũng muốn đi loanh quanh trong cái thị xã nhỏ xíu này để giữ lại những cảm xúc xôn xao, khi trong sân trường vắng vẻ đột nhiên xuất hiện những mái tóc dài bay nhẹ theo gió cùng những tà áo dài trắng.

Bức hình chú bé ở bìa quyển truyện Hoàng tử Bé trên kệ sách đập vào mắt tôi. Nét mặt u buồn lạc lõng và dáng vẻ mỏng manh của chú khiến bước chân tôi chậm lại. Tôi cầm quyển sách lên. Lời mở đầu cuốn sách mềm mại đến nỗi một giọt lệ thiếu nữ tuổi mười bảy từ tim tôi tràn ra, và tôi có cảm giác hình như thời gian đang dừng lại phân vân. Tôi biết từ nay mình sẽ không còn hồn nhiên, tự do cột hai vạt áo dài lại để nhảy lò cò nữa. Hoàng tử Bé đã mang đến cho tôi một thông điệp -  chỉ có sự hồn nhiên và tự do tuyệt đối của tuổi thơ mới có thể giúp cho đứa trẻ sống tiếp một cuộc đời “người lớn” đầy ắp tình yêu thương vị tha.

Rời khỏi tiệm sách, chúng tôi rẽ vào quán chè ông Lê kêu 3 ly chè đậu xanh đánh. Cả ba chúng tôi đều chưa biết uống cà phê. Tôi im lặng nhìn ra đường. Khánh Ly đang hát “Gia tài của mẹ là nước Việt buồn” khiến tôi thấy lòng mình buồn quá đỗi. Nỗi buồn tuổi mười bảy tưởng như mơ hồ giờ đây bỗng nhiên khắc đậm trong tôi. Tôi đang sống trên một quê hương rất buồn. Chiến tranh đang diễn ra ác liệt hàng ngày. Một ngày nào đó, những người bạn trai học cùng lớp của tôi vừa gặp lại sáng nay sẽ ra mặt trận. Và sẽ có những người tôi sẽ không bao giờ được gặp lai sau khi năm học này kết thúc. Ba chúng tôi ngồi trầm ngâm bên nhau cho đến lúc đèn đường bật sáng.
Ngày khai giảng và cơn mưa phùn đã nhẹ nhàng đi qua.

Tôi bước vào thế giới  huyền ảo, bí ẩn của “người lớn” với cơn mưa phùn mười bảy tuổi trong ngày khai giảng lớp Đệ Nhứt B1 và đôi mắt sáng có tia nhìn chế diễu dưới hàng chân mày rậm. Trên tay tôi, cuốn truyện Hoàng tử Bé  trở thành người bạn đồng hành.

Mấy chục năm trôi qua, tuổi mười bảy cùng cảm giác tự do tuyệt đối của tuổi thơ hồn nhiên vẫn còn đọng lại mãi mãi trong tôi.

Mỗi sáng sớm tôi thường nhắm mắt lại, kê mặt dưới vòi hoa sen để hứng những hạt mưa phùn tuổi mười bảy mơn man làn da đã hằn nhiều vết chân chim của mình. Những cái tên của dãy lớp Đệ Nhứt lần lượt hiện ra trong tia phun của vòi hoa sen: Mộng Tiên, Nhạn, Nhị, Mỹ Linh, Xuân Hoa, Fatima, Lựu, Ngọc An, những anh chàng có cùng tên Tuấn, tên Đức, tên Sơn, Tế, Việt , Tiền, Hai, anh lớp trưởng Thân, hai dãy bàn cuối lớp với Chừng, Cương, Thông, Vĩnh, Duân, Tuyên, Trúc, Tòng…Các bạn tôi có thể đã không còn nhớ, còn tôi hàng ngày  vẫn “thấy “ họ trong cơn mưa phùn tuổi mười bảy của tôi.
Và luôn luôn, từ trong những tia nước của vòi hoa sen, hiện ra đôi mắt sáng biết cười cùng hàng chân mày rậm nhìn tôi chế diễu…

Vera Nguyễn

NGÀY HỌP MẶT




                  Tấn Xuân

Tôi ở Sài Gòn lâu, rất lâu
Mà nay - họp mặt chỉ lần đầu
Thầy xưa, bạn cũ TRẦN QUỐC TUẤN (1)
Náo nức trong lòng muốn gặp mau.

Hội quán (2) sáng nay đã đông người
Nhìn qua, nhìn lại rõ thực hư
Bạn cùng trang lứa tôi đâu nhỉ
Chỉ thấy xôn xao tiếng nói, cười.

Đây rồi! Doanh, Nguyên (3) và Tống Phát
Ba thằng bạn cũ của tôi ơi
Từ lâu vắng biệt tin bè bạn
Giờ gặp mừng, vui biết bao lời!

Ôn lại chuyện xưa dưới mái trường
Bao người lên hát nét còn tươi
Đọc thơ, kể chuyện… thời đi học
Rạng rỡ trên môi những nụ cười.

Tôi thấy trong lòng vui, rất vui
Nên tôi cũng hát rất yêu đời
Lời thơ gửi gấm vào Kỷ yếu
“Thầy cũ bạn xưa” nhớ nhau nhiều.

Chia tay luyến tiếc ngày hội ngộ
Chúc thầy, chúc bạn mãi bình an
Mỗi năm mong tới ngày họp mặt
“Ôn cố tri tân” tuổi an nhàn.
                    Sài Gòn, 09.01.2011

(1) Trường THPT Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi.
(2)  Hội quán Hà Nội Xưa - Nơi họp mặt lần thứ 9.
 (3) Tạ Văn Doanh, Hàng Chức Nguyên.

HƯƠNG XUÂN
                  Tấn Xuân
Ngày xuân xuôi ngược người xe
Dáng xuân lả lướt trên hè đông vui
Trà xuân thơm thoảng đầu mội
Hương xuân gợi nhớ một thời xuân xanh
Xuân đi cho trẻ lớn nhanh
Xuân về cho kẻ đạt thành vươn vai
Nắng xuân tóc đã bạc phai
Rượu xuân xin chúc LỘC, TÀI, AN KHANG
Tình xuân vẫn mãi chứa chan
Hoa xuân vẫn mãi ngập tràn niềm vui
Xuân xao xuyến cả đất trời
Xuân lưu luyến mãi tình người yêu xuân.


XUÂN TƯỢNG KINH
Sáng nay vườn hoa nắng
Thềm xanh tiếng chim ca
Mắt ai cười trong lá
Long lanh chùm sương hoa.

Bên song nụ nhiệm mầu
Đóa hồn hoa trắng au
Bướm non chập chờn cánh
Nghe núi đồi xôn xao.

Xuân mặc áo thiên thanh
Thơ lừng sáng cây cành
Tôi quì hôn tóc nắng
Đất trời mở trang kinh.

TRẦN THOẠI NGUYÊN.



GẶP BẠN XƯA

Tặng NGÔ XUÂN VŨ và bạn học xưa dưới mái trường TRẦN QUỐC TUẤN ,QUẢNG NGÃI.
Ba mươi năm,tóc bạc rồi
Gặp nhau mình vẫn nói cười như xưa
Chuyện trò đâu biết nắng mưa
Nhớ ơi mái tóc thuở vừa độ yêu!
Về đâu một áng mây chiều
Trăm năm lạnh tiếng chim kêu bên trời.
Mối tình còn đó bạn ơi
Mà màu hoa cũ bay rồi còn đâu!
Trải qua cuộc thế biển dâu
Mình cười,bạn cũng gật đầu,cười vang...

TRẦN THOẠI NGUYÊN.


Tâm sự…
Nguyễn Oai

Tụi mình khắp Tỉnh tụ về đây
Qua một kỳ thi khá đắng cay
Ban đầu bỡ ngỡ vì xa lạ
Dần quen, dần cảm rồi dần say

Say trong tình nghĩa cùng trang lứa
Say cả nể nhau trong mỗi bài
Cùng học cùng ganh đua vị thứ
Để đầu tuần được dịp làm oai!!!

Tàn cuộc tú tài, đi bốn phương
Người lên học tiếp, kẻ tha phương
Vật vã với đời bao sóng gió
Gặp nhau mừng rỡ… lòng yêu thương

Giờ mắt “ 4 con” đầu đã bạc
Giàu, nghèo đâu kể… chỉ tình thương
Mong sao nhiều dịp ngồi nhau lại
Nhớ tuổi thơ xưa ở mái trường…

Đời đã trôi đi… mãi trôi đi
Nhục, vinh rồi cũng chẳng là gì
Mai kia, mốt nọ…hư vô cả
Kẻ còn ở lại… tiễn người đi

Lứa xưa giờ có còn mấy đứa
Giận làm chi! Hờn để làm gì ?
Nguyện yêu như những ngày xưa cũ
Thanh thản, nhẹ nhàng, chẳng tính suy
                                      Nguyễn Oai
24/11/2011




XUÂN ĐÀI 
NGA PHƯỚC
                                                    Thương tặng em Nga Phước
Nga Phước, Nga Phước em là Nga Phước
Mộng ngàn đời dâng lặng cả đôi môi
Tóc rối đêm xuân, má mịn chín ngời
Tình ngát cả, hoa lòng vừa hé nhụy
Là Nga Phước nên làn da em tuyệt mỹ
Mắt mơ  màng và ngát tinh sương
Ngực em ươm như những nụ hoa hồng
Lòng ôm mộng dệt thanh tơ lả lứơt
Là Nga Phước nên mắt em vời vợi
Thu không gian xanh biếc cả chân trời
Trăng nghẹn ngào, biển lặng lẽ xa khơi
Ngàn cánh bướm xác xơ tìm thương tiếc
Vườn xuân đầy chim hót, bướm bay
 Thọ chiêm ngưỡng em suốt cả đêm ngày
Gọi hồn thơ về ngập tràn khắp nẻo
Đêm qua chị  mơ thấy em buồn đếm bước
Nên vội vàng tìm lại nét xuân tươi.

                                        Tháng 10 năm 1963

Nga Phước

HOÀI
( Riêng tặng chị Nga Phước)

Trời cũ ta về hồn rưng nhớ
Áo trắng ngày xưa bay qua đường chiều
Tay học trò nghiêng vành nón nhẹ
Hồng xưa đầy, nay chết giữa cô liêu
Nghe mùa xuân còn trên nụ biếc
Trời giữa Thu nên sương khói xuống lòng
Trở giấc mê chiều, ta ngồi tiếc
Đời vô minh, ta thân sóng lạc giòng
Qua lối cũ, bước chân chừng ái ngại
Tóc bay trong nỗi nhớ vô cùng
Ngày tháng đó bây giờ như xa lạ
Bến mê nào, ta khóc nỗi tình chia.
 Nguyễn Thị Nga Tuyết
(Áo tím Hội an)


Lý Ngọc Lê Thanh

Một Thời Trần Quốc Tuấn
Chẳng ở lâu với Trần Quốc Tuấn
Nhưng dù sao cũng cựu học sinh
Năm ba tháng đủ nuôi hãnh diện
Khoảng thanh xuân theo suốt đời mình

Thời xưa ấy tôi là thiếu nữ
Tóc chấm vai trán thắm bâng đô
Chẳng ai khen nhưng tôi thừa biết
Sắc nhan tôi kiều diễm thế nào

Mỗi buổi sáng tôi thường đến sớm
Đứng bâng quơ trước cổng vài giây
Rồi lững thững đi vào sân rộng
Gió theo hầu nâng vạt áo bay

Bạn tôi đến tụm năm tụm bảy
Chờ chuông reo líu quíu sắp hàng
Câu chuyện dỡ mang theo vào lớp
Bỏ nắng buồn nằm nép hành lang

Lắm lần bị thầy kêu lên bảng
Đứng ngu ngơ như thể tìm thơ
Học bài thuộc bất ngờ quên lững
Tôi chưa biết gì, không lẽ đã mơ ?
Chưa hề có đôi mắt ai rình rập
Sau lưng như chưa được có đuôi
Đám nam sinh trẻ con ngổ ngáo
Thì có ai nối chiếc đuôi người ?

À có lẽ mấy ông lính chiến
Mắt xa xăm thỉnh thoảng liếc ngang
Thấy ngồ ngộ tôi đùa chớp mắt
Chẳng lẽ nào tạo những hoang mang?

Tôi nhí nhảnh vui cùng chúng bạn
Giấu me chua cốc ổi hộc bàn
Tiếng cười nói đậm đà cuộc sống
Đời nữ sinh trong sáng nhẹ nhàng

Tôi yêu quí mái trường tôi theo học
Mỗi góc trường như da thịt riêng tôi
Lòng lớp học chẳng khác chi lòng mẹ
Nơi cho tôi sẽ khôn lớn nên người

Làm sao quên ngói nâu tường vàng đất
Thời chiến chinh trầm mặc giữa cây xanh
Đường Quang Trung cũng đường quốc lộ 1
Nơi trường tôi che chở đám tuổi xanh

Mấy mươi năm xa trường rời cổng lớp
Tôi vẫn còn nơi ấy một thời xuân
Bè bạn hỡi, thầy cô ơi, tôi đợi
Một ngày vui gặp mặt thăm trường

Lý Ngọc Lê Thanh


CUỘC ĐỜI

                                    Cuộc đời như một giấc mơ
Mới đây một thoáng tuổi thơ qua rồi
Bây giờ tuổi qúa sáu mươi
Ta cùng họp mặt vui tuơi với đời.
Hoái Nhân- Trương Văn Kịch

                          Ky niem

Tham' thoat' thoi dua tuoi da gia
Nho' thoi di hoc o que ta
Mong sao khon lon' thanh danh toai
Ap' u trong tim thuo ngoc nga
Trai bao gian kho' nguoi moi nga
Ai mat', ai con? Noi thiet' tha
Moi nam hop mat mot lan nha'
Tam su voi day cu' trai ra
Hanh phuc' bao lan ta hoi ngo
Giao luu, nang coc', lai hat' ca
Ke sao cho xiet' long Mong nho'
Ky niem ngay nao tuoi mo hoa

Hoài Nhan (Truong Van Kich)



HỒI ỨC MỘT THỜI

                                                                             
Thuở ấy, khoảng mười năm về trước. chúng tôi, ba đứa bạn sống lưu lạc ở Sài Gòn, và rồi vô tình gặp nhau tại Gò Vấp. Cuộc hội ngộ bất ngờ và đầy thú vị.
Rồi một buổi sáng đẹp trời, ngồi tại góc phố café, chúng tôi hàn huyên tâm sự, hỏi nhau chuyện gia đình, vợ con, chuyện sinh sống học hành của con cháu. Hỏi thăm về bạn bè cũ, đứa còn đứa mất, đứa ở phương xa. Gợi lại những kỷ niệm êm đềm ngày xưa dưới mái trường thân yêu Trần Quốc Tuấn – Quảng Ngãi. Bấy giờ, bỗng nhiên chúng tôi, “ ba chàng lang thang thất nghiệp” xa quê ước ao làm sao tập hợp được nhóm bạn cũ cùng lớp khóa 61-68 ngày xưa đang sinh sống làm việc ở Sài Gòn này. Thế là một thư mời được thảo ra bằng một bài văn xuôi súc tích đầy cảm động… cùng định thời gian, địa điểm họp và lên chương trình để gửi đi khắp nơi trong thành phồ và các tỉnh lân cận.
Cuộc họp mặt đầu tiên tại nhà bạn Đóa cuối năm 2002 gần ngày giáng sinh se lạnh. Nhưng không khí buổi chiều hôm ấy thật vui và ấm cúng. Hiện diện khoảng ba mươi người toàn đực rựa. Có bạn hỏi sao không liên lạc được bóng hồng nào? Thật tình mà nói, vì là cuộc họp đầu tiên nên chưa tìm được bông hồng nào cả. Các bạn nữ đã lưu lạc không biết về bến bờ nào? Nhiều người theo chồng bỏ cuộc chơi, hay có người đã làm mẹ, làm bà, bận rộn việc tề gia nội trợ, việc làm ăn….
Buổi sơ khai khởi xướng bởi Trương Văn Kịch, Nguyễn Quang Đóa, Nguyễn Rung, và Dương Minh Chính với sự hỗ trợ tư vấn của Lê Quốc Ân, Đặng Nhứt, Ngô Quốc Chiến
Sau đó những năm kế tiếp cứ độ đông tàn xuân đến. Trời Sài Gòn mát dịu lại gửi thư mời họp… thư mời có thêm những bài thơ sưu tầm hoặc sáng tác đi kèm để góp phần thi vị và mời gọi thiết tha:
                        Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
                        Cuộc đời như gió thoảng hoa trôi
                        Lợi danh như thể mây chìm nổi
                        Chỉ có tình thương để lại đời
                                                Trích thơ TNHK       
Rồi những năm sau đó đã có nhiều bông hồng họp mặt tô thắm cho đời thêm vui…
                        Còn gặp nhau thì hãy cứ say
                        Say tình say nghĩa bấy lâu nay
                        Say thơ say nhạc say bè bạn
                        Quên cả không gian lẫn tháng ngày
                                                Thơ TNHK
Có chị hỏi các anh cứ say hoài sao chúng em chịu nổi?
Các chị thấy ở đây say tình say nghĩa chứ có say bia say rượu? Ngày xưa các chị cứ say người ngoài chứ có ai say bạn cùng lớp đâu?
Lâu dần cuộc họp các bạn có ý kiến mở rộng thêm vài lớp đi trước và vài lớp đi sau… chúng tôi rất hoan nghênh nhưng chỉ ± 1 và 2 chứ nhiều quá cũng loãng!
Những năm sau mời được thêm quý thầy cô, gặp lại nhau, thầy cô rất xúc động. người nào cũng đã bát thập. có thầy mời lên phát biểu và nhận hoa tay đã run, chân đi không vững… nhưng tinh thần và trí tuệ vẫn còn minh mẫn sáng suốt. thật là quý hóa. Còn học trò có anh mới lục tuần mà tóc đã bạc, đầu hói hơn thầy!
Sau này hội họp ngày càng đông, ban tổ chức phải chọn nhà hàng và gửi thư mời trước cả tháng nơi xa và một tuần lễ trong thành phố. Có thêm những bạn ở Tây Nguyên, ở quê nhà, Nha Trang, Vũng Tàu, đồng bằng sông Cửu Long cùng về. Đặc biệt mấy năm gần đây có vài bạn ở nước ngoài cũng tranh thủ về thăm quê để được họp mặt và chung tay đóng góp giúp đỡ thầy cô và bạn nào có cuộc sống còn khó khăn hoặc rủi ro tai nạn hay đau ốm… Sau mỗi kỳ họp, cuối năm ban tổ chức đều tổng kết tài chính còn lại bao nhiêu lưu quỹ rõ rang, dành khi bạn bè, thầy cô có điều gì cần chia sẻ thì đến thăm viếng…
Lần họp thứ VIII (2009) các bạn hiện diện rất đông vui, chương trình tổ chức hấp dẫn, có nhiều ý kiến, ngâm thơ ca hát và tiệc nhẹ, tặng hoa thầy cô. Tất cả được chụp hình, quay phim, sang ra đĩa để làm kỷ niệm.
Sau lần họp này, ban liên lạc cũ đã được 8 năm. Nay vì sức khỏe không tốt nên chúng tôi xin trao lại ban liên lạc mới gồm các bạn Nguyễn Quốc Chiến, Lê Văn Công, Lê Quốc Ân, Đặng Nhứt, Dương Minh Chính.
Nhìn lại thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, cuộc đời như một giấc mơ. chúng ta phần lớn đều được bình an khỏe mạnh nhưng cũng có một số bạn đã vĩnh viễn ra đi về miền hư vô… đột ngột vĩnh biệt cuộc chơi không một lời từ giã và cũng có bạn bị tai nạn hay đột quỵ phải sống đời thực vật… Ôi! Đó cũng là do tạo hóa an bài theo luật tự nhiên “sinh lão bệnh tử” mà thôi! Có một bạn đã nói: “ Chúng ta còn gặp nhau hôm nay là may phước và quý hóa lắm rồi… chứ mai kia chưa biết ai sẽ cúng lạy  cho ai?”…
Hôm nay gió heo may lại về, trời Sài Gòn se lạnh, chúng ta lại hội ngộ cuối năm 2011 để cùng nhau hàn huyên tâm sự… và với ban liên lạc mới thật hùng hậu, năng động, sáng tạo hy vọng sẽ có nhiều đổi mới và hấp dẫn..
                        Bốn mươi năm lẻ gặp lại nhau
                        Tóc xanh nay đã vội phai màu
                        Thầy trò bằng hữu tình không nhạt
                        Mặc thời gian nhẹ lướt qua mau
                                                            (Thơ Nguyễn Thái Ất)
TRƯƠNG VĂN KỊCH

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN THỜI TRUNG HỌC





TRỞ LẠI HỌC ĐƯỜNG
Tôi sinh ra và lớn lên tại đảo Lý Sơn, một hòn đảo nhỏ bé ở Biển Đông cách bờ biển Quảng Ngãi chừng hai mươi lăm cây số. Ngày xưa (trước 1975) ít ai biết đến. Ngày nay là huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi, cả nước đều biết, nhờ sự kiện nóng liên quan đến đội hùng binh Vạn lý Trường Sa , từng trấn giữ Hoàng Sa, xuất phát từ nơi này, mà đài truyền thanh truyền hình thường xuyên nhắc đến.
Năm 1957 đứng nhất lớp, tôi phải nghỉ học vì quê hương không trường, muốn học phải vào tỉnh (Thị xã Quảng Ngãi) và tốn kém nhiều tiền bạc, đi lại rất khó khăn. Hồi đó mọi di chuyển trên biển chỉ bằng ghe buồm, nhanh chậm là tùy theo chiều gió, thời tiết, chứ đâu có tàu bè máy móc như bây giờ. Nghỉ học, chơi lêu lỏng thỉnh thoảng phụ cha mẹ một số việc lặt vặt trong gia đình. Thời đó không hề có sách báo về đến miền quê, nên sau ba năm nghỉ học kiến thức tiểu học rơi rụng gần hết…

Thế nhưng , sau đó 3 năm, cha tôi quyết định cho tôi đi học tiếp, sau khi thảo luận với anh Sáu tôi. Anh Sáu có người bạn thân lớn hơn tôi một lớp, đang đi học trong tỉnh, vừa đậu Diplôme và về đảo nghỉ hè.
. Giữa anh Sáu và cha tôi trao đổi những gì tôi chẳng biết, anh Sáu nói với tôi:
- Anh nghe bạn anh nói: “đi học ba tháng hè Đệ thất, rồi đầu niên học mới,
mình nộp đơn học đệ lục
- Nếu được vậy thì tốt quá.
Rồi Cha mẹ và các anh tôi tất bật lo tiền bạc, quần áo chuẩn bị cho tôi theo anh Tường bạn của anh Sáu vào Quảng Ngãi đăng ký học hè. Tôi hăm hở đến trường Chấn Hưng ghi danh học lớp “đệ thất lên đệ lục”.
. Buổi đầu tiên là hai tiết Anh văn do thầy Thái Văn Nhàn đảm trách, thầy cho bài test, kêu một học sinh lên bản truy bài từ vựng:
- Em hãy đọc từ “study”
Bạn học sinh nhanh lẹ đáp:
- Dạ thưa thầy: “xách tai đi”
Thầy đưa tay nắm tai học sinh xách lên và nói:
- Em đọc chỉ từa tựa chứ không đúng. Phải đọc lớn, tai mình nghe và sửa từ từ.
Thầy cứ tiếp tục như thế học sinh này đến học sinh khác, mỗi lần thầy gọi là tim tôi run bần bật vì sợ nếu mình bị kêu lên thì chắc như trời trồng chịu trận chứ biết gì để nói. Ít ra. các bạn dù học kém, nhưng cũng đã học được một năm đệ thất, đằng này mình chưa học đánh vần a,b,c…
Buổi thứ nhì là hai tiết toán do thầy Nguyễn Trung Can giảng dạy. Thầy cho đề toán trên bảng. Đó là bài toán hình học về tam giác, có ghi các ký hiệu tam giác và góc. Thầy cũng kêu lần lượt học sinh lên giải, hai bạn đầu không giải được, hai bạn tiếp theo giải được mỗi bạn một câu. Còn tôi khi đọc xong đề là “tá hỏa tam tinh” vì tôi chẳng hiểu ký hiệu nào là tam giác, ký hiệu  nào  là  góc, vì ở tiểu học ngày xưa đâu biết ký hiệu đó bao giờ!!
Hú vía, qua bốn giờ học tôi tự thấy mình không thể học được, tôi xách gói trở về quê không kịp hỏi ý kiến anh Tường vì sợ anh không cho về. Về đến nhà cha mẹ và các anh đều ngạc nhiên.
Sau khi trình bày những khó khăn không thê nào vượt qua được khi học nhảy lớp, cha tôi và anh Sáu đồng ý cho tôi tiếp tục đi học và vào lớp đệ thất Chấn Hưng..

HỌC TRUNG HỌC ĐỆ NHẤT CẤP
           
            Tôi vào học lớp đệ thất A trường trung học Chấn Hưng, cũng những người thấy dạy Anh văn và toán mà tôi đã gặp khi học hè cùng một số thầy cô các môn khác. Vào học bắt đầu với cách phát âm a,b,c… trong Anh văn và các ký hiệu cơ bản trong toán học từ dễ đến khó, tôi hiểu và lấy làm thích thú. Sau tháng đầu tiên tôi được xếp hạng 16/60, tháng thứ nhì xếp hạng 8/60, tháng thứ ba xếp hạng 4/60, tháng thứ tư và thi học kỳ I được xếp hạng 1/60 và được cấp học bổng đủ trang trải học phí, nghe được tin này cha mẹ tôi phấn khởi vui mừng. Cuối năm Đệ thất và hai năm tiếp theo đệ lục, đệ ngũ vẫn xếp hạng nhất cuối năm. Phần thưởng hạng nhất mỗi cuối năm rất đầy đủ sách vở từ sách giáo khoa đến sách tham khảo, nhờ vậy ba tháng hè về quê có thời gian rãnh tha hồ đọc, đọc đến đâu tôi hiểu đến đó nên đến giữa năm Đệ ngũ, đọc được thông báo của Bộ giáo dục cho phép ai có văn bằng tiểu học từ bốn năm trở lên được nộp đơn thi Trung học Đệ I cấp với tư cách thí sinh tự do, tôi nảy sinh ý nghĩ thi thử xem thời vận, tôi liền mua thêm một số sách cần thiết và mượn tập những người học trước về đọc ngoài giờ đến lớp. Đến cuối năm học 1963 – 1964 tôi dự thi THĐIC đậu hạng bình thứ, kết quả này được xướng danh trên đài phát thanh.  Ở  quê, cha mẹ và các anh tôi nghe được lấy làm hãnh diện và vô cùng vui sướng. Từ đó cha mẹ và các anh tôi đi đến đâu cũng được bà con hàng xóm hỏi thăm và chúc tụng. Riêng tôi cảm thấy mãn nguyện vì mình đã thực hiện được phần lời hứa đối với cha mẹ và các anh.

. Vào Trung học Đệ nhị cấp (THĐIIC):
            Tôi đậu THĐIC hạng bình thứ là đủ tiêu chuẩn tuyển thẳng vào các lớp đệ Tam của trường trung học Trần Quốc Tuấn, trường công lập duy nhất của Tỉnh có bề thế và truyền thống nề nếp mà tôi ao ước lâu nay. Đến ngày nộp đơn, tôi vào trường với tinh thần phấn khởi tự tin, đọc lại thông báo xem có gì thay đổi trước khi nộp đơn, mục nộp học bạ vẫn không thay đổi nhưng học bạ của tôi chỉ có đến Đệ ngũ năm học 1963-1964 nên tôi sợ nộp vào không hợp lệ, tôi phân vân không biết tính sao cho phải lẻ để mình được nhận vào học ở trường này.
            Trường nhận hồ sơ, tôi ra về với tâm trạng lo âu, buồn bã không biết mình có được vào học trường Trần Quốc Tuấn hay phải học trường tư? Do vậy, Trường tư thục Chấn Hưng khai giảng trước tôi vẫn đăng ký vào học, ngừa khi trường Trần Quốc Tuấn không nhận tôi vào. Nửa tháng sau trường Trần Quốc Tuấn khai giảng, tôi đến trường với tâm trạng chưa tin mình là học sinh Trần Quốc Tuấn.
            Buổi học đầu tiên ở trường TQT, khi thấy tên mình trong danh sách học sinh lớp đệ tam B1TQT, tôi mừng run lên, lật đật đi đóng tiền niên liễm học đường,và đem biên lai về nộp cho thầy rồi xuống ngồi nhìn quanh. Thấy lớp quá đông, ai cũng xa lạ, một số đông có vẻ tự tin nói chuyện huyên thuyên. Đó là các bạn cũ của trường, còn vài bạn khác và hai bạn nữ duyên dáng ngồi ở bàn trên ít trò chuyện, thỉnh thoảng nhìn nhau mỉm cười. Đó  là các bạn ở trường khác mới vào, cùng tâm trạng như tôi.
            Sau một tuần học tập, tưởng đã yên, nỗi vui mừng chưa trọn vẹn, văn phòng lại gửi giấy mời tôi lên gặp thầy Tiên bổ sung học bạ. Tôi lên văn phòng được thầy Tiên giải thích:
            - Do lớp đệ tam B1 quá đông, nay trường quyết định xét học bạ để chia lớp, chứ không thi tuyển nhưng em không có học bạ sao xét được?
            - Dạ mai em đem học bạ nộp cho thầy.
            - Nhớ nhanh lên kẻo trễ, không được xét đấy!
            Về nhà, lại một lần nữa tôi băn khoăn, lo lắng vì sợ trường không nhận học bạ của mình vì thiếu học bạ đệ tứ, nằm suy nghĩ cách ứng xử thế nào để thầy hiểu và thông cảm hoàn cảnh của mình. Tôi đánh bạo đem học bạ vào nộp:
            - Thưa thầy, em nộp học bạ cho thầy.
            Thầy cầm chưa kịp mở ra, tôi tiếp:
            - Thưa thầy, em mới học đệ ngũ niên khóa rồi nên học bạ em không có điểm đệ tứ, mong thầy cứu xét giùm em.
            Ngay lúc đó có thầy hiệu trưởng Nguyễn Khoa Phước qua văn phòng, thầy Tiên mau mắn nói:
            - May quá, tôi khỏi qua phòng thầy, có việc này xin hỏi ý kiến thầy.
            - Việc gì vậy?
            - Em Trương Thân lớp đệ tam B1, không có học bạ đệ tứ nhưng thi THĐIC đậu hạng bình thứ thì có đủ tiêu chuẩn cho em học không? Và nếu được thì xét chia lớp hướng nào?
            - Anh xem lại danh sách trúng tuyển có phải em đỗ chính thức bình thứ hay không?
            Thầy Tiên lấy danh sách ra xem rồi trả lời:
            - Đúng, em đậu bình thứ với số điểm khá cao (gần bình).
            - Thế thì cho em học chứ còn nói gì nữa. Còn xét xếp lớp thì xét theo điểm Toán, Lý , kết hợp giữa điểm ở học bạ đệ ngũ và điểm thi.
            - Được rồi em về lớp học đi.
            - Dạ em cám ơn hai thầy.
            Tôi trở về lớp với lòng hớn hở, tự tin. Từ đó tôi mới thấy mình chính thức là học sinh Trần Quốc Tuấn và cũng từ đó tôi mới có ý kiến trao đổi với bạn bè, thầy cô trong giờ học.
            Hết tuần thứ hai, lớp được cắt học sinh yếu môn Toán, Lý đưa qua lớp Đệ tam A, còn khoảng 50 học sinh được giữ lại Đệ tam B1, trong đó có tôi .
            Những giờ học Toán, Lý, Hóa, Anh văn tôi rất thích. Thầy cô thường kêu học sinh lên bảng sửa bài, làm bài.
            Lớp đệ tam B1 có 50 học sinh nhưng chỉ có hai nữ sinh là Tạ Thị Đào và Bùi Thị Mỹ Anh, trong đó Mỹ Anh có nhan sắc ưa nhìn, đượm vẻ quý phái, nhưng tính tình nghịch ngợm dễ thương , không có vẻ xa cách. Mỹ Anh được xem là hoa khôi của lớp. Thầy Phú dạy lý hoá có vẻ để ý Mỹ Anh.
            Giờ Anh văn  học kỳ I thầy Phạm Hữu Trúc đảm trách. Thầy có vẻ bất bình thường,  dạy thì không theo sách mà  theo một số bài hát. Thầy tự xưng đạo hiệu là “Nhì thiết bảng đạo nhân” với bài ca “Ơi đò đưa xác” có kèm cả vũ điệu và một bài đặc sắc có tựa đề “The Snake Song” (Mãng xà ca khúc).
            Học kỳ II thầy Nguyễn Quang Lan dạy theo sách giáo khoa “La Vie en Amerique” tiếng Anh chương trình Pháp trong đó có bài gây ấn tượng nhất là bài “The young in heart” (Sự trẻ trung trong tâm hồn).
            Giờ Văn thì thay đổi nhiều thầy, trọng tâm là học truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm.
            Suốt năm đệ  tam chúng tôi học, vui chơi rất tự nhiên và chân tình. Cả thầy và trò không phải gò bó trong việc dạy và học tập vì ở Đệ II cấp, lới Đệ tam là năm “ dưỡng sức” lấy đà, làm bệ phóng cho hai năm học tiếp theo phải thi tú tài I và tú tài II. Cuối năm lớp đệ tam thì tôi nhất lớp, Bảo hạng nhì và Ất hạng ba, được lãnh thưởng toàn tỉnh tại rạp Kiến Thành. Từ đó tôi và Ất thân nhau hơn và rồi hai năm sau chúng tôi ở chung nhà trọ, nhà của anh giáo viên tiểu học có em học chung khối lớp.
            Năm đệ tam qua mau, chúng tôi tạm chia tay về quê nghỉ hè đoàn tụ gia đình, chuẩn bị cho hai năm học tới.

         Ở lớp đệ nhị và đệ nhất: cả thầy và trò đều tập trung vào việc dạy và học làm sao cho đậu tú tài ít nhất là tú tài I vì “Rớt tú tài anh đi trung sĩ”; Tất cả chúng tôi: Ất, Bảo Công, Thân, Mỹ Anh vẫn luôn giữ vị thứ “top five” của lớp và đậu Tú tài I rồi Tú tài II.
      Mỹ Anh đã có người yêu công khai đưa đón đi học hằng ngày, làm cho các nam sinh trong tốp lớn như tôi, Nguyễn Văn Ất, Nguyễn Ái, Nguyễn Ân, Vương Em, Đoàn Hiển…cảm thấy có chút bàng hoàng thương tiếc vẫn vơ.
Sau kết quả Tú tài II chúng tôi chia tay nhau không lời từ giã, mỗi người một đường đi:
Tôi, Nguyễn Đình Bảo, Lê Văn Công vào Đại học
Nguyễn Văn Ất, Đoàn Hiển xin dạy giờ ở các trường  tư thục
Một số bạn vào quân ngũ như Nguyễn Ái, Nguyễn Cho, Nguyễn Ân, Phan Văn Vĩnh, Phan Thượng Dư…
            Sau năm 1975 chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với nhau. Mỗi người tự tìm kế sinh nhai và tự lo cho cuộc sống của mình. Mãi đến năm 2007, chúng tôi mới có cơ hội liên lạc được và gặp lại nhau sau 40 năm dài đằng đẵng:
“Bốn mươi năm gặp lại bạn Thân,
Quả đất xưa nay vẫn chuyển vần…”
(Chu Thiên Tử)
Hoặc:
“40 năm thời gian qua dằng dặc,
Bọn chúng mình có người:
- Định cư nơi xa lơ xa lắc (như Mỹ Anh, Đình Bảo, Nguyễn Ân)
- Hoặc cắt khẩu về “Tây” (như Nguyễn Cho, Nguyễn Ái)
Nào ngờ bạn vẫn còn đây (như Trương Thân, Nguyễn Văn Ất, Lê Văn Công)”
(Trong bài thơ: Bốn mươi năm Bạn, Ta gặp lại, tôi gởi cho bạn Ất)
            Muộn màng thì vẫn còn hơn là không gặp nhau, không biết nhau lưu lạc phương nào. Hằng năm hoặc có dịp chúng ta lại gặp gỡ, giao lưu, trao đổi tâm tình, chia sẻ những kỷ niệm khó quên về ngôi trường thân yêu mà tuổi thơ ta từng gắn chặt. Đó cũng là một cách để quên đi những “stress” mà tuổi già chúng ta thường gặp./.

Trương Thân
  TRƯƠNG THÂN
TIẾP NỐI ƯỚC MƠ
(Tặng con gái Tường Minh)
Ra đi  nhớ trở lại nhà
Nơi có Ông bà, Cha mẹ mong con..

***
Tuổi thơ cha gián đoạn học đường,
Xong tiểu học ở nhà giúp Nội.
Bởi quê hương hết lớp, không trường.
Muốn học tiếp?- “xuất dương vào tỉnh” (1)

Nội con nghèo, cha vẫn  ước mơ,
Được học nữa, văn, thơ, kiến thức…
Bốn năm sau Nội cho cha học tiếp,
Tạo nấc thang, cha cất bước vào đời…

Đến Tường Minh,nay  khác thế thời
Đường có sẵn, thênh thang tiếp bước
Học giỏi hơn mẹ cha ngày trước
Giải quốc gia, huy chương bạc môn Anh

Mộng xuất dương du học hình thành
Học bổng Mỹ, Nhật, Anh hay Úc?
Ai đoán được đường đời vinh nhục?
Bị chối từ học bỗng Australia.

Dẫu trong lòng chớm chút xót xa,
Con hụt hẫng, mà không chùn bước
 Ngoại thương, trường, con đường dốc ngược
 Đã hiên ngang dấn bước chân vào

Nỗ lực ra trường, thứ hạng cao,
Rồi đi làm, không quên việc học
Gmat, Toefl, hai kỳ thi hiểm hóc
Vẫn vuợt qua, với điểm số cao

Đủ cho con có thể bước vào,
Chương trình học MBA(3) bên Mỹ,
Vấn đề lớn, chỉ là học phí
Sáu mươi hai ngàn, ký quỹ, đô la.

Đó là điều thử thách mẹ cha,
Quyết bán nhà! vì tương lai con trẻ?.
Chỉ cầu mong con luôn vui khoẻ
Phấn đấu vươn lên,xứ sở người.

Học để xây cuộc sống thắm tươi,
Đem sở học giúp nhà dựng nước
Báo đáp công ơn tiền nhân thuở trước
Thoả mong chờ, lòng cha mẹ bao năm.
                                   Trương Thân
Chú thích:      (1) xuất dương (vì quê ở đảo Lý Sơn)
                     (2) MBA viết tắt của Master of Business Administration (thạc sĩ quản trị kinh doanh)