Tôi chỉ mới bắt đầu nói ra điều ước thứ nhất sau nhiều chục năm dài nhốt mình trong văn phòng máy lạnh cặm cụi làm việc, không đi thăm viếng bạn bè xa:
- Lâu quá mình không gặp lại anh Thông và chị Châu, ước gì mình sắp xếp được một chuyến đi thăm hai anh chị.
thì lập tức tôi có ngay được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của chị Hà Kim Anh, hai anh em nhà họ Dương - Anh Minh Chính, anh Mộng Hổ, và một vị khách mời “đặc biệt”: anh Dũng - tuyệt vời cứ như là phép mầu của bà Tiên trong truyện cổ tích đã đọc lúc còn bé. Gọi là khách mời “đặc biệt” vì anh Dũng thường hãnh diện khoe với mọi người rằng anh là “rể” Trần Quốc Tuấn. Tôi không biết Ngài Hưng Đạo Vương có thấy thú vị khi chấp nhận anh là “rể” của Ngài không, nhưng tôi chắc chắn một điều là anh Dũng rất yêu vợ, và vì thế anh yêu cả… Ngài Hưng Đạo Vương cùng đám con cháu Ngài, là chúng tôi, những người trong giòng họ của … vợ anh.
Năm người chúng tôi khởi hành ngày thứ Bảy, năm 2011. Thật khó để mà một kẻ chỉ biết tiêu dùng thời gian suốt đời của mình một cách hậu hĩ cho chuyện học hành và làm việc như tôi lại có thể nhớ được chính xác ngày tháng cho những sự việc xảy ra trong đời mình, nên tôi chỉ có thể nhớ là 5 chúng tôi đã có một chuyến đi thú vị và rất ý nghĩa vào một ngày thứ Bảy năm 2011. Xin các bạn chớ phiền trách tôi về chuyện lơ đãng này. Một khi chúng ta thấy vui khi có bạn bè bên cạnh thì đó là một khoảnh khắc bất tử, vậy chúng ta cần nhớ đến ngày tháng, nơi chốn làm gì, hôm qua hay hôm kia, nơi này hay nơi khác, niềm vui có khác gì nhau?
Sau những chuỗi ngày mưa bão nối nhau liên tiếp, hôm ấy trời nắng đẹp. Cậu tài xế ngủ quên nên hai chị em tôi kể đủ thứ chuyện “hồi xưa” trong lúc chờ xe vẫn chưa thấy xe đến đón. Để bù lại thời gian đã bị trễ, anh Chính cứ đi bộ tà tà từ chợ Bà Chiểu đến tận nhà anh Hổ. Có một chút kẹt xe trên đường lúc sáng sớm. Cái điện thoại trên tay tôi reng liên tục thúc giục : mọi người tới đâu rồi?.
Rốt cuộc, chuyến đi cũng bắt đầu và ai cũng thấy chuyện khởi hành trễ là … “chuyện nhỏ như con thỏ”, theo cách nói tuổi teen Việt Nam bây giờ.
Một chuyến xe khởi hành trễ vì cậu tài xế ngủ quên, một hành khách phải đi bộ trên 2 cây số mới được lên xe, hai “bà cụ” trên 60 tuổi ngồi chờ xe rất lâu, nhưng niềm vui vẫn tràn trề và thời gian vẫn rộn rã.
Tôi là người vui nhất. Vì điều ước thứ nhất đã được thực hiện: một chuyến đi xa thành phố với những người bạn mình quý mến, được gặp hai người bạn cũ rất nổi tiếng trong thế giới tuổi học trò ngày xưa với một mối tình lãng mạn, sâu sắc, gắn bó, cho tới bây giờ vẫn được kể lại với sự ngưỡng mộ, lại được gặp thêm những người bạn mới “hoành tráng” của anh Chính giới thiệu. Nhất định, tôi sẽ có dịp biết thêm về những điều thú vị của từng những mảnh đời riêng lẻ trong cuộc sống bao la này.
Nơi chúng tôi dừng nghỉ chân đầu tiên là một “thế giới”. Vốn là kẻ lơ ngơ ít ra đường, tôi không xác định được cái “thế giới” này nằm ở quãng nào trên chặng đường dài từ SG đi Đà lạt. Tôi chỉ biết gọi nó cái tên “thế giới” vì đó không phải là một túp lều, một căn nhà, một biệt thự, một mảnh vườn, một tòa lâu đài, một khu rừng, mà nó là tất cả - là “thế giới”- chứa rất nhiều vật dụng từ cổ đại đến hiện đại: chiếc điện thoại cổ của thế kỷ 17, những đồ mỹ nghệ nhỏ xíu chạm trổ tinh xảo… Anh Chính giới thiệu chủ nhân của “thế giới “ này với chúng tôi - anh Năm. Trong bộ quần áo làm vườn và chiếc nón Mexico rộng vành của những chàng cao bồi miền Viễn Tây xa xưa, trông anh Năm rất hợp với cái vẻ bạt ngàn của đất, của cây cối , của những tảng đá to lớn đủ hình dáng, và của không khí thoang thoảng mùi hương núi rừng nữa.
Tôi chú ý đến hai con cá nặng 70kg được nuôi trong một cái hồ nhỏ. Tôi đứng tần ngần nhìn chúng rất lâu. Tôi không thể gọi chúng là cá - mặc dù khi bé tôi đã từng được theo ba tôi ra khơi trên tàu đánh cá biển Thuận An, và đã từng thấy những con “cá ông” lớn hơn chúng rất nhiều. Đó mới chính là những con cá, được tự do vẫy vùng ngang dọc giữa đại dương, bơi vun vút như tên phóng trên mặt biển rộng mênh mông…Còn ở đây, trong cái hồ nhỏ này, đôi bạn bơi chậm chạp, uể oải, lười biếng, ngay cả những cái quẫy đuôi cũng yếu ớt ,lề mề như đang trông ngóng được trở về biển cả ngày xưa. Chúng làm tôi nhớ đến những cụ già trong viện dưỡng lão - cô đơn, chậm chạp, uể oải, chờ đợi một ngày nào đó con cái sẽ đưa mình về lại nơi mình trước kia đã từng sống cả một cuộc đời.
Tôi dè dặt hỏi anh Năm:
- Rồi chúng nó sẽ ra sao?
Anh Năm ngần ngừ đôi chút rồi đáp: - Tôi cũng chưa biết, có người khuyên tôi đem phóng sinh chúng ở hồ chùa Trúc Lâm nhưng tôi chưa tính được.
***
Căn nhà xinh xắn trông như một tổ chim bồ câu của anh chị Thông - Châu nằm sâu phía dưới đường cái khiến tôi nhớ đến dốc Nam Giao – Huế. Trước sân nhà nhìn xuống một thung lũng trồng trà và cà phê. Bước ra khỏi xe, tôi lập tức được bao quanh bởi một mùi hương tự nhiên quen thuộc, hỗn hợp của cây cối trong những chuyến picnic vào rừng ngày còn bé. Trên bàn , thức ăn đã bày ra sẵn sàng, thơm phức, khiến tôi thấy bụng đói cồn cào. Thế là sau khi chào hỏi cả nhà, tôi ngồi sà xuống bàn ăn ngay , không khách sáo chút nào cả . Chị Châu đã chu đáo chuẩn bị cho tôi vài món chay.Vừa nhâm nhi mấy món ăn , tôi vừa đưa mắt ngắm nghía chung quanh. Chị Châu vẫn giữ nét đẹp nhí nhảnh hồn nhiên của ngày xưa. Anh Thông lấy ống điếu thuốc lào ra, nhét thuốc vào, châm lửa và rít một hơi dài rất thành thạo. Tôi ngạc nhiên bật cười thú vị. Anh Thông đã hoàn toàn thay đổi thành một người khác so với những gì còn đọng lại trong ký ức tôi hiện nay. Họ ngồi bên nhau trong bàn ăn, đôi mắt nhìn nhau vẫn … tình tứ như một cặp tình nhân dễ thương của mấy chục năm về trước. Trong trí tôi hiện ra một chị Châu trắng trẻo, mũi dọc dừa, tóc buộc đuôi ngựa lúc lắc theo bước chân đi. Một anh Thông thư sinh, nhiều tài văn thơ, hội họa, nổi tiếng với câu phát biểu mang đầy khí phách rất … lãng tử:
- Khi đất nước hòa bình, tôi sẽ không cần đi học, xé hết sách vở, và rong chơi từ Bắc chí Nam.
Giờ đây, anh chị đang ngồi trước mặt tôi, với những ngày bình yên và hạnh phúc trong màu xanh bát ngát bao quanh nhà - vườn cà phê và trà, những luống rau thẳng hàng - trong một không khí ấm áp thân ái của truyền thống đại gia đình cổ xưa: tứ đại đồng đường, mà nhiều người trong bạn bè chúng tôi, vì những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử khiến những thành viên trong một đại gia đình đã phải chia lìa kẻ Đông, người Tây…Tưởng chúng tôi sẽ ở lại nhà anh chị để uống rượu ngâm thơ dưới trăng như những hàn sĩ ngày xưa, nhưng sau khi dạo quanh vườn nhà một vòng, một ai đó trong bọn bỗng kêu lớn với giọng đầy vẻ phấn khích :
- Sao chúng ta không mời cả hai ông bà … chạy thẳng lên Đà lạt “du hí” một vòng rồi mai về lại SG hê?
Và thế là anh Thông được chị Châu “cấp hộ chiếu” đi Đà lạt chơi với nhóm chúng tôi. Cuộc hành trình thứ hai bắt đầu trong ánh nắng đã dịu xuống, và buổi chiều đang chậm rãi đến gần.
Đang nhắm mắt mơ màng trên xe nghe mọi người nói đủ thứ chuyện ngày xưa, đột nhiên tôi nghe tiếng anh Dũng reo lên như vừa phát minh ra điều gì thú vị lắm:
- Nè quý vị, mình có một ông bạn, ngày xưa là hàng xóm, bây giờ lên đây, mở trang trại, bọn mình tiện đường ghé vào nhà “hắn” uống một ly nhé?
Tôi tặc lưỡi: Ừ, đi thì đi, chẳng có gì phải chọn lựa nơi này hay nơi khác để vui cả. Chiếc xe này đang chở 6 hành khách vô tư, rảnh rỗi, chẳng có việc gì để làm, đi đâu lại chẳng được?Thế là anh Dũng và anh Chính cùng rút điện thoại trong túi ra, tranh nhau a-lô, hào hứng thiết kế thêm những “show” mới ngoài dự tính. Bốn người còn lại chỉ còn việc … ngồi yên trên xe, mặc cho 2 đạo diễn sắp xếp và mặc cho tài xế muốn lái xe đi đâu thì đi. Tôi nhắm mắt lại ngủ gà ngủ gật trên xe, từ sáng đến giờ mãi vui tôi quên cả nỗi mệt nhọc đi đường.
Trời tối dần cho đến khi ánh mặt trời tắt hẳn mà chiếc xe chở chúng tôi vẫn loay hoay trong khu rừng trùng trùng điệp điệp. Qua cửa kính xe, bóng những cây thông sừng sững lờ mờ trên đồi cao hai bên đường. Anh Dũng và anh Chính vẫn giòn giã nói chuyện qua điện thoại:
- Tới chỗ ông chỉ đường rồi nè, đi tiếp sao đây?
- Còn bao nhiêu cây số nữa?
- Cây cầu ra sao?
- Thấy hàng rào sắt sơn trắng là rẽ vào hả ?
- Ừ, khoảng 8 giờ tụi tôi tới Đà Lạt uống cà phê với ông.
- Nhớ đăng ký dùm tui hai phòng ở resort Thung lũng Vàng nghe…
Rồi tôi nghe tiếng anh Chính càu nhàu:
- Cái “thằng cha” này chỉ đường kiểu gì mà kỳ cục quá , đi hoài không tới , nhất định “thằng chả” không phải là dân kỹ sư.
Tôi thích thú mỉm cười một mình trong bóng tối. Lần đầu tiên tôi nghe đến cái khái niệm không phải dân kỹ sư thì không biết cách chỉ đường…
Cuối cùng rồi cái hàng rào sắt sơn trắng đã hiện ra trong ánh đèn xe. Từ xa, căn nhà trông giống như một tòa lâu đài rực rỡ ánh sáng, nằm khuất trong rừng sâu, dưới chân một ngọn đồi nhỏ. Con dốc từ đường xuống tới sân nhà dài cả trăm mét và thắng đứng như vách núi. Cả bọn xuống xe đi bộ khi nhìn thấy cái dốc cao vời vợi như thế. Chiếc xe và cậu tài xế lăn bánh từ từ… Tôi hồi hộp hết sức…
Chủ nhân cùng cô cợ trẻ với hai chú bé mặt mũi kháu khỉnh đã đứng sẵn trên hiên nhà đón khách. Một bàn tiệc đã bày sẵn. Không biết vì gia đình chủ nhân rất hiếu khách hay vì hiếm khi các vị khách đến tận tòa lâu đài này mà trông ai cũng rộn rịp, lăng xăng sắp xếp đón tiếp chúng tôi. Tôi mỉm cười vẫy tay chào hai chú bé. Con chó nằm ở cửa vẫy đuôi vui vẻ sủa chúng tôi vài tiếng. Không khí thật dễ chịu. Chủ khách lại mời nhau chén chú chén anh.
Sau đó anh Dũng tách ra đi chơi với bạn, còn 5 chúng tôi lên Đà Lạt để uống trà và nói chuyện … Thiền định, với một người bạn của anh Chính, anh Trần Đình Lãnh - cũng là một cựu học sinh Trần Quốc Tuấn. Theo dự tính, 5 chúng tôi sẽ nghỉ đêm lại resort Thung Lũng Vàng để sáng sớm hôm sau được đón bình minh tại thung lũng.
Thật là thiếu sót nếu tôi không nhắc đến cái quán cà phê rất ấm cúng nằm trên con đường yên tĩnh và sạch sẽ đó. Do mải mê ngắm cảnh và tham lam hít thở không khí trong lành thiếu thốn lâu nay, tôi lại chẳng thể nhớ được tên quán cà phê và con đường. Tôi chỉ biết lúc ấy trời se se lạnh. Trên đường phố các cô gái vẫn mặc váy ngắn. Tôi thật sự yêu thích bầu không khí tĩnh mịch trong quán. Những cặp tình nhân thầm thì nói chuyện. Vài bàn đông khách vẫn không ồn ào. Chính chúng tôi mới là nhóm người duy nhất gây ra tiếng ồn ở đó.
Anh Lãnh, bắt đầu câu chuyện từ một câu hỏi của chị Kim Anh:
- Anh bắt đầu ngồi Thiền từ lúc nào?
Chị Kim Anh và tôi chắm chú lắng nghe anh nói về đạo Phật, về Thiền định. Anh Chính tò mò nhìn hai chị em mím miệng cười cười. Anh Hổ im lặng lơ đãng đưa mắt nhìn khung cảnh chung quanh quán. Anh Thông có vẻ sốt ruột nhất, đứng lên đi đến một bức tranh lớn treo trên vách ngắm nghía.Rời khỏi quán cà phê, xe đưa chúng tôi đến Thung Lũng Vàng.
Phải mất 30 phút chờ resort sắp xếp, chúng tôi mới được thông báo: chỉ còn một phòng lớn cho khoảng 7 người, mặc dù anh Chính đã đăng ký 2 phòng trước khi đến. Và thế là cả bọn kéo nhau vào căn phòng cuối cùng còn sót lại của resort. Thật ra, đây là một căn hộ nhỏ dành cho các gia đình ít người đi nghỉ mát, có phòng khách, phòng ngủ, bếp và toilette riêng biệt. Hai chị em tôi vào phòng ngủ, ba vị còn lại trải nệm nghỉ ở phòng khách.
Anh Chính còn ráng nói đùa khi mắt mọi người đã ríu lại:
- Chuyến này về Sài gòn “mấy chả” sẽ đồn tui với mấy bà đi Đà Lạt ở chung phòng.
Mọi người phá lên cười thú vị. Mà đúng là chuyện “ở chung phòng” ở lứa tuổi trên 60 này cũng ngộ nghĩnh thật. Mới 5 giờ sáng, điện thoại đã reng dồn dập. Tôi mắt nhắm mắt mở, giọng còn ngái ngủ:
- Good morning.
Tiếng trả lời lao xao:- Dậy, dậy, đón bình minh.
Tôi tỉnh ngủ hẳn. Đón bình minh tại một thung lũng! Thật là hào hứng.Khi tôi bước ra sân, sương buổi sáng long lanh khắp nơi: trên những chùm hoa mimosa màu tím, trên đám cỏ dưới chân tôi, trong tiếng chim hót vang trên những ngọn cây, và cả trong làn không khí tươi mát nữa. Tôi “ngửi” thấy mùi sương trên từng bước đi làm khuấy động sự tĩnh lặng của buổi sáng.
Cả nhóm dừng chân ở một góc đồi nhìn xuống con sông lấp lánh ánh vàng. Anh Chính nói:
- Tôi hát một bài tặng mọi người nhé.
Và anh cất cao giọng:“ …tôi vẫn chờ em dưới gốc sim già đó, hái dâng người một đóa đẫm tương tư. Đêm nguyệt cầm…”
Ngôn từ trong bài hát thật đẹp. Hóa ra, với Vũ Đức Sao Biển, giọt tương tư cũng giống như hạt sương, rất mong manh, đã từng đọng trên những cánh hoa của những gã si tình hái tặng người yêu. Tôi thấy mình thật đáng trách khi quá đỗi vô tình nhận những bó hoa mà không hề nhìn thấy hạt sương long lanh trên đó.
Tôi chăm chú nhìn các bạn. Anh Thông đang cúi đầu nhìn xuống chân mình. Chị Kim Anh ngồi im lặng trên chiếc ghế đá với vẻ mặt đăm chiêu. Anh Hổ trầm ngâm đứng bên gốc phù dung. Có lẽ các bạn tôi đang hình dung đến những đóa hoa sim đẫm tương tư của một thời áo trắng nơi quê nhà?
Khoảnh khắc này thật quá đỗi tuyệt vời!
Tôi tự hỏi : có phải những năm tháng bị thất lạc bạn bè do thời cuộc đã hoàn toàn đi qua…?
Nguyễn thị Mỹ Anh
(Niên khóa 1961 – 1968)