TRỞ LẠI HỌC ĐƯỜNG
Tôi sinh ra và lớn lên tại đảo Lý Sơn, một hòn đảo nhỏ bé ở Biển Đông cách bờ biển Quảng Ngãi chừng hai mươi lăm cây số. Ngày xưa (trước 1975) ít ai biết đến. Ngày nay là huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi, cả nước đều biết, nhờ sự kiện nóng liên quan đến đội hùng binh Vạn lý Trường Sa , từng trấn giữ Hoàng Sa, xuất phát từ nơi này, mà đài truyền thanh truyền hình thường xuyên nhắc đến.
Năm 1957 đứng nhất lớp, tôi phải nghỉ học vì quê hương không trường, muốn học phải vào tỉnh (Thị xã Quảng Ngãi) và tốn kém nhiều tiền bạc, đi lại rất khó khăn. Hồi đó mọi di chuyển trên biển chỉ bằng ghe buồm, nhanh chậm là tùy theo chiều gió, thời tiết, chứ đâu có tàu bè máy móc như bây giờ. Nghỉ học, chơi lêu lỏng thỉnh thoảng phụ cha mẹ một số việc lặt vặt trong gia đình. Thời đó không hề có sách báo về đến miền quê, nên sau ba năm nghỉ học kiến thức tiểu học rơi rụng gần hết…
Thế nhưng , sau đó 3 năm, cha tôi quyết định cho tôi đi học tiếp, sau khi thảo luận với anh Sáu tôi. Anh Sáu có người bạn thân lớn hơn tôi một lớp, đang đi học trong tỉnh, vừa đậu Diplôme và về đảo nghỉ hè.
. Giữa anh Sáu và cha tôi trao đổi những gì tôi chẳng biết, anh Sáu nói với tôi:
- Anh nghe bạn anh nói: “đi học ba tháng hè Đệ thất, rồi đầu niên học mới,
mình nộp đơn học đệ lục- Nếu được vậy thì tốt quá.
Rồi Cha mẹ và các anh tôi tất bật lo tiền bạc, quần áo chuẩn bị cho tôi theo anh Tường bạn của anh Sáu vào Quảng Ngãi đăng ký học hè. Tôi hăm hở đến trường Chấn Hưng ghi danh học lớp “đệ thất lên đệ lục”.
. Buổi đầu tiên là hai tiết Anh văn do thầy Thái Văn Nhàn đảm trách, thầy cho bài test, kêu một học sinh lên bản truy bài từ vựng:
- Em hãy đọc từ “study”
Bạn học sinh nhanh lẹ đáp:
- Dạ thưa thầy: “xách tai đi”
Thầy đưa tay nắm tai học sinh xách lên và nói:
- Em đọc chỉ từa tựa chứ không đúng. Phải đọc lớn, tai mình nghe và sửa từ từ.
Thầy cứ tiếp tục như thế học sinh này đến học sinh khác, mỗi lần thầy gọi là tim tôi run bần bật vì sợ nếu mình bị kêu lên thì chắc như trời trồng chịu trận chứ biết gì để nói. Ít ra. các bạn dù học kém, nhưng cũng đã học được một năm đệ thất, đằng này mình chưa học đánh vần a,b,c…
Buổi thứ nhì là hai tiết toán do thầy Nguyễn Trung Can giảng dạy. Thầy cho đề toán trên bảng. Đó là bài toán hình học về tam giác, có ghi các ký hiệu tam giác và góc. Thầy cũng kêu lần lượt học sinh lên giải, hai bạn đầu không giải được, hai bạn tiếp theo giải được mỗi bạn một câu. Còn tôi khi đọc xong đề là “tá hỏa tam tinh” vì tôi chẳng hiểu ký hiệu nào là tam giác, ký hiệu nào là góc, vì ở tiểu học ngày xưa đâu biết ký hiệu đó bao giờ!!
Hú vía, qua bốn giờ học tôi tự thấy mình không thể học được, tôi xách gói trở về quê không kịp hỏi ý kiến anh Tường vì sợ anh không cho về. Về đến nhà cha mẹ và các anh đều ngạc nhiên.
Sau khi trình bày những khó khăn không thê nào vượt qua được khi học nhảy lớp, cha tôi và anh Sáu đồng ý cho tôi tiếp tục đi học và vào lớp đệ thất Chấn Hưng..
HỌC TRUNG HỌC ĐỆ NHẤT CẤP
Tôi vào học lớp đệ thất A trường trung học Chấn Hưng, cũng những người thấy dạy Anh văn và toán mà tôi đã gặp khi học hè cùng một số thầy cô các môn khác. Vào học bắt đầu với cách phát âm a,b,c… trong Anh văn và các ký hiệu cơ bản trong toán học từ dễ đến khó, tôi hiểu và lấy làm thích thú. Sau tháng đầu tiên tôi được xếp hạng 16/60, tháng thứ nhì xếp hạng 8/60, tháng thứ ba xếp hạng 4/60, tháng thứ tư và thi học kỳ I được xếp hạng 1/60 và được cấp học bổng đủ trang trải học phí, nghe được tin này cha mẹ tôi phấn khởi vui mừng. Cuối năm Đệ thất và hai năm tiếp theo đệ lục, đệ ngũ vẫn xếp hạng nhất cuối năm. Phần thưởng hạng nhất mỗi cuối năm rất đầy đủ sách vở từ sách giáo khoa đến sách tham khảo, nhờ vậy ba tháng hè về quê có thời gian rãnh tha hồ đọc, đọc đến đâu tôi hiểu đến đó nên đến giữa năm Đệ ngũ, đọc được thông báo của Bộ giáo dục cho phép ai có văn bằng tiểu học từ bốn năm trở lên được nộp đơn thi Trung học Đệ I cấp với tư cách thí sinh tự do, tôi nảy sinh ý nghĩ thi thử xem thời vận, tôi liền mua thêm một số sách cần thiết và mượn tập những người học trước về đọc ngoài giờ đến lớp. Đến cuối năm học 1963 – 1964 tôi dự thi THĐIC đậu hạng bình thứ, kết quả này được xướng danh trên đài phát thanh. Ở quê, cha mẹ và các anh tôi nghe được lấy làm hãnh diện và vô cùng vui sướng. Từ đó cha mẹ và các anh tôi đi đến đâu cũng được bà con hàng xóm hỏi thăm và chúc tụng. Riêng tôi cảm thấy mãn nguyện vì mình đã thực hiện được phần lời hứa đối với cha mẹ và các anh.
. Vào Trung học Đệ nhị cấp (THĐIIC):
Tôi đậu THĐIC hạng bình thứ là đủ tiêu chuẩn tuyển thẳng vào các lớp đệ Tam của trường trung học Trần Quốc Tuấn, trường công lập duy nhất của Tỉnh có bề thế và truyền thống nề nếp mà tôi ao ước lâu nay. Đến ngày nộp đơn, tôi vào trường với tinh thần phấn khởi tự tin, đọc lại thông báo xem có gì thay đổi trước khi nộp đơn, mục nộp học bạ vẫn không thay đổi nhưng học bạ của tôi chỉ có đến Đệ ngũ năm học 1963-1964 nên tôi sợ nộp vào không hợp lệ, tôi phân vân không biết tính sao cho phải lẻ để mình được nhận vào học ở trường này.
Trường nhận hồ sơ, tôi ra về với tâm trạng lo âu, buồn bã không biết mình có được vào học trường Trần Quốc Tuấn hay phải học trường tư? Do vậy, Trường tư thục Chấn Hưng khai giảng trước tôi vẫn đăng ký vào học, ngừa khi trường Trần Quốc Tuấn không nhận tôi vào. Nửa tháng sau trường Trần Quốc Tuấn khai giảng, tôi đến trường với tâm trạng chưa tin mình là học sinh Trần Quốc Tuấn.
Buổi học đầu tiên ở trường TQT, khi thấy tên mình trong danh sách học sinh lớp đệ tam B1TQT, tôi mừng run lên, lật đật đi đóng tiền niên liễm học đường,và đem biên lai về nộp cho thầy rồi xuống ngồi nhìn quanh. Thấy lớp quá đông, ai cũng xa lạ, một số đông có vẻ tự tin nói chuyện huyên thuyên. Đó là các bạn cũ của trường, còn vài bạn khác và hai bạn nữ duyên dáng ngồi ở bàn trên ít trò chuyện, thỉnh thoảng nhìn nhau mỉm cười. Đó là các bạn ở trường khác mới vào, cùng tâm trạng như tôi.
Sau một tuần học tập, tưởng đã yên, nỗi vui mừng chưa trọn vẹn, văn phòng lại gửi giấy mời tôi lên gặp thầy Tiên bổ sung học bạ. Tôi lên văn phòng được thầy Tiên giải thích:
- Do lớp đệ tam B1 quá đông, nay trường quyết định xét học bạ để chia lớp, chứ không thi tuyển nhưng em không có học bạ sao xét được?
- Dạ mai em đem học bạ nộp cho thầy.
- Nhớ nhanh lên kẻo trễ, không được xét đấy!
Về nhà, lại một lần nữa tôi băn khoăn, lo lắng vì sợ trường không nhận học bạ của mình vì thiếu học bạ đệ tứ, nằm suy nghĩ cách ứng xử thế nào để thầy hiểu và thông cảm hoàn cảnh của mình. Tôi đánh bạo đem học bạ vào nộp:
- Thưa thầy, em nộp học bạ cho thầy.
Thầy cầm chưa kịp mở ra, tôi tiếp:
- Thưa thầy, em mới học đệ ngũ niên khóa rồi nên học bạ em không có điểm đệ tứ, mong thầy cứu xét giùm em.
Ngay lúc đó có thầy hiệu trưởng Nguyễn Khoa Phước qua văn phòng, thầy Tiên mau mắn nói:
- May quá, tôi khỏi qua phòng thầy, có việc này xin hỏi ý kiến thầy.
- Việc gì vậy?
- Em Trương Thân lớp đệ tam B1, không có học bạ đệ tứ nhưng thi THĐIC đậu hạng bình thứ thì có đủ tiêu chuẩn cho em học không? Và nếu được thì xét chia lớp hướng nào?
- Anh xem lại danh sách trúng tuyển có phải em đỗ chính thức bình thứ hay không?
Thầy Tiên lấy danh sách ra xem rồi trả lời:
- Đúng, em đậu bình thứ với số điểm khá cao (gần bình).
- Thế thì cho em học chứ còn nói gì nữa. Còn xét xếp lớp thì xét theo điểm Toán, Lý , kết hợp giữa điểm ở học bạ đệ ngũ và điểm thi.
- Được rồi em về lớp học đi.
- Dạ em cám ơn hai thầy.
Tôi trở về lớp với lòng hớn hở, tự tin. Từ đó tôi mới thấy mình chính thức là học sinh Trần Quốc Tuấn và cũng từ đó tôi mới có ý kiến trao đổi với bạn bè, thầy cô trong giờ học.
Hết tuần thứ hai, lớp được cắt học sinh yếu môn Toán, Lý đưa qua lớp Đệ tam A, còn khoảng 50 học sinh được giữ lại Đệ tam B1, trong đó có tôi .
Những giờ học Toán, Lý, Hóa, Anh văn tôi rất thích. Thầy cô thường kêu học sinh lên bảng sửa bài, làm bài.
Lớp đệ tam B1 có 50 học sinh nhưng chỉ có hai nữ sinh là Tạ Thị Đào và Bùi Thị Mỹ Anh, trong đó Mỹ Anh có nhan sắc ưa nhìn, đượm vẻ quý phái, nhưng tính tình nghịch ngợm dễ thương , không có vẻ xa cách. Mỹ Anh được xem là hoa khôi của lớp. Thầy Phú dạy lý hoá có vẻ để ý Mỹ Anh.
Giờ Anh văn học kỳ I thầy Phạm Hữu Trúc đảm trách. Thầy có vẻ bất bình thường, dạy thì không theo sách mà theo một số bài hát. Thầy tự xưng đạo hiệu là “Nhì thiết bảng đạo nhân” với bài ca “Ơi đò đưa xác” có kèm cả vũ điệu và một bài đặc sắc có tựa đề “The Snake Song” (Mãng xà ca khúc).
Học kỳ II thầy Nguyễn Quang Lan dạy theo sách giáo khoa “La Vie en Amerique” tiếng Anh chương trình Pháp trong đó có bài gây ấn tượng nhất là bài “The young in heart” (Sự trẻ trung trong tâm hồn).
Giờ Văn thì thay đổi nhiều thầy, trọng tâm là học truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm.
Suốt năm đệ tam chúng tôi học, vui chơi rất tự nhiên và chân tình. Cả thầy và trò không phải gò bó trong việc dạy và học tập vì ở Đệ II cấp, lới Đệ tam là năm “ dưỡng sức” lấy đà, làm bệ phóng cho hai năm học tiếp theo phải thi tú tài I và tú tài II. Cuối năm lớp đệ tam thì tôi nhất lớp, Bảo hạng nhì và Ất hạng ba, được lãnh thưởng toàn tỉnh tại rạp Kiến Thành. Từ đó tôi và Ất thân nhau hơn và rồi hai năm sau chúng tôi ở chung nhà trọ, nhà của anh giáo viên tiểu học có em học chung khối lớp.
Năm đệ tam qua mau, chúng tôi tạm chia tay về quê nghỉ hè đoàn tụ gia đình, chuẩn bị cho hai năm học tới.
Ở lớp đệ nhị và đệ nhất: cả thầy và trò đều tập trung vào việc dạy và học làm sao cho đậu tú tài ít nhất là tú tài I vì “Rớt tú tài anh đi trung sĩ”; Tất cả chúng tôi: Ất, Bảo Công, Thân, Mỹ Anh vẫn luôn giữ vị thứ “top five” của lớp và đậu Tú tài I rồi Tú tài II.
Mỹ Anh đã có người yêu công khai đưa đón đi học hằng ngày, làm cho các nam sinh trong tốp lớn như tôi, Nguyễn Văn Ất, Nguyễn Ái, Nguyễn Ân, Vương Em, Đoàn Hiển…cảm thấy có chút bàng hoàng thương tiếc vẫn vơ.
Sau kết quả Tú tài II chúng tôi chia tay nhau không lời từ giã, mỗi người một đường đi:
Tôi, Nguyễn Đình Bảo, Lê Văn Công vào Đại họcNguyễn Văn Ất, Đoàn Hiển xin dạy giờ ở các trường tư thục
Một số bạn vào quân ngũ như Nguyễn Ái, Nguyễn Cho, Nguyễn Ân, Phan Văn Vĩnh, Phan Thượng Dư…
Sau năm 1975 chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với nhau. Mỗi người tự tìm kế sinh nhai và tự lo cho cuộc sống của mình. Mãi đến năm 2007, chúng tôi mới có cơ hội liên lạc được và gặp lại nhau sau 40 năm dài đằng đẵng:
“Bốn mươi năm gặp lại bạn Thân,
Quả đất xưa nay vẫn chuyển vần…”
(Chu Thiên Tử)
Hoặc:
“40 năm thời gian qua dằng dặc,
Bọn chúng mình có người:
- Định cư nơi xa lơ xa lắc (như Mỹ Anh, Đình Bảo, Nguyễn Ân)
- Hoặc cắt khẩu về “Tây” (như Nguyễn Cho, Nguyễn Ái)
Nào ngờ bạn vẫn còn đây (như Trương Thân, Nguyễn Văn Ất, Lê Văn Công)”
(Trong bài thơ: Bốn mươi năm Bạn, Ta gặp lại, tôi gởi cho bạn Ất)
Muộn màng thì vẫn còn hơn là không gặp nhau, không biết nhau lưu lạc phương nào. Hằng năm hoặc có dịp chúng ta lại gặp gỡ, giao lưu, trao đổi tâm tình, chia sẻ những kỷ niệm khó quên về ngôi trường thân yêu mà tuổi thơ ta từng gắn chặt. Đó cũng là một cách để quên đi những “stress” mà tuổi già chúng ta thường gặp./.
Trương Thân
TRƯƠNG THÂN
TIẾP NỐI ƯỚC MƠ
(Tặng con gái Tường Minh)
Ra đi nhớ trở lại nhà
Nơi có Ông bà, Cha mẹ mong con..
***
Tuổi thơ cha gián đoạn học đường,
Xong tiểu học ở nhà giúp Nội.
Bởi quê hương hết lớp, không trường.
Muốn học tiếp?- “xuất dương vào tỉnh” (1)
Nội con nghèo, cha vẫn ước mơ,
Được học nữa, văn, thơ, kiến thức…
Bốn năm sau Nội cho cha học tiếp,
Tạo nấc thang, cha cất bước vào đời…
Đến Tường Minh,nay khác thế thời
Đường có sẵn, thênh thang tiếp bước
Học giỏi hơn mẹ cha ngày trước
Giải quốc gia, huy chương bạc môn Anh
Mộng xuất dương du học hình thành
Học bổng Mỹ, Nhật, Anh hay Úc?
Ai đoán được đường đời vinh nhục?
Bị chối từ học bỗng Australia.
Dẫu trong lòng chớm chút xót xa,
Con hụt hẫng, mà không chùn bước
Ngoại thương, trường, con đường dốc ngược
Đã hiên ngang dấn bước chân vào
Nỗ lực ra trường, thứ hạng cao,
Rồi đi làm, không quên việc học
Gmat, Toefl, hai kỳ thi hiểm hóc
Vẫn vuợt qua, với điểm số cao
Đủ cho con có thể bước vào,
Chương trình học MBA(3) bên Mỹ,
Vấn đề lớn, chỉ là học phí
Sáu mươi hai ngàn, ký quỹ, đô la.
Đó là điều thử thách mẹ cha,
Quyết bán nhà! vì tương lai con trẻ?.
Chỉ cầu mong con luôn vui khoẻ
Phấn đấu vươn lên,xứ sở người.
Học để xây cuộc sống thắm tươi,
Đem sở học giúp nhà dựng nước
Báo đáp công ơn tiền nhân thuở trước
Thoả mong chờ, lòng cha mẹ bao năm.
Trương Thân
Chú thích: (1) xuất dương (vì quê ở đảo Lý Sơn)(2) MBA viết tắt của Master of Business Administration (thạc sĩ quản trị kinh doanh)