PHÁ THẦY…!


LS. Trần Công Ly Tao
(Phó Chủ nhiệm ĐLS TP.HCM)
Chuyện xảy ra đã hơn nửa thế kỷ mà tôi còn áy náy và hối tiếc về việc làm dại dột của lũ thứ ba sau nhất quỷ, nhì ma.
Hồi ấy, vào giữa niên khóa 1960-1961, chúng tôi gồm Trần Bảy (nay là Trần Công Ly Tao), Trần Ngôn và Trần Quang Trung đang theo học đệ tứ (lớp 9) trường trung học Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi.
Một buổi chiều giữa tháng Chạp, học sinh chúng tôi vừa trải qua kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt. Ba chúng tôi tụ tập tại nhà trọ (chủ nhà trọ là chú Nga, ở thôn Phú Mỹ Hạ, xã Tư Chánh, quận Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi) nói chuyện tầm phào. Hôm nọ, vào khoảng sáu giờ chiều, thầy Thọ có thói quen lội bộ từ nhà Thầy ở trọ nằm trên đường Quốc lộ 1 (nay là đường Quang Trung), xã Tư Chánh (phường Nghĩa Chánh), quận Tư Nghĩa, Quảng Ngãi tới nhà người yêu là Nguyễn Thị Nga Phước; lúc bấy giờ Nga Phước đang học lớp nhất (nay là lớp 5) trường tiểu học Tư Chánh A. Phải thừa nhận thầy Thọ có con mắt tinh đời, biết chọn nuôi “gà giò để mái”, chậm chân biết đâu sẽ bị người khác phổng tay trên. Tuy mới học lớp nhất trường làng, Nga Phước đã bộc lệ nét duyên đáng. Nói theo kiểu cụ Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong tác phẩm Cung oán ngân khúc “Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình” hay thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp trong thi phẩm Đi Chùa Hương “em tuy mới mười lăm - mà đã lắm người thăm - nhờ mối mai đưa tiếng - khen tươi như trăng rằm…”.
Có hai hướng đi đến nhà “người đẹp”, một từ Cổng Kiểu, một từ chùa Hội Phước (Chùa Tăng Già). Thường thì thầy Thọ chọn hướng QL1 qua trước cổng chùa Tăng Già, băng ngang qua ngõ nhà chúng tôi ở trọ.
Thấy thầy Thọ si tình, chúng tôi nghĩ cách qua nhà Thầy chơi: phát hiện thầy Thọ đang đi phía trước nhà chú Nga, chúng tôi xua chó nhà chú Nga ra “cẩu đấu” với chó thầy Thọ dẫn theo. Như mọi lần, lần này chó của thầy Thọ cũng bị chó nhà chú Nga “đo ván”. Điều ấy dễ hiểu vì “chó ỷ gần nhà, gà ỷ gần vườn” mà lỵ! Sau nhiều lần bị “quê độ”, thầy Thọ đổi chiến thuật, tập kích thẳng vào thư phòng chúng tôi đang ở trọ, ghi tên và lớp học từng đứa một (tên học sinh được ghi ở các nhãn dán trên trang đầu tập vở). Bị truy lùng bất ngờ, chúng tôi hoảng loạn không kịp trở tay, hè nhau chạy trốn vào nhà bếp của thiếm Nga. Sau chừng mười phút lục lọi, trước khi ra về. Thầy Thọ hăm: Thầy sẽ đưa ra Hội đồng kỷ luật nhà trường, không cho các học sinh vừa chọc Thầy dự kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt sắp tới. Đợi Thầy đi khỏi, chúng tôi trở lại phòng học, mặt mũi đứa nào cũng trông thật buồn cười vì dính đầy lọ ngẹ, y hệt nàng “công chúa lọ lem”.
Bốn tên bị ghi vào “sổ đen” của Thầy là Bảy, Ngôn, Tám và Đức. Bảy và Ngôn thì đáng tội, chỉ oan cho Tám và Đức; vì lúc chọc phá Thầy, Tám và Đức không có ở nhà. Là “đồng phạm” nhưng Trung “lọt sổ” do trọ gần đó đến chơi nên không để tập vở trên bàn học khi thầy Thọ khám xét. Nghĩ mình vô can, Trung không chịu cùng tôi và Ngôn đến xin lỗi Thầy. Không thể để “bụng làm. dạ chịu”, tôi nhất quyết lôi Trung đi với tôi và Ngôn đến nhà trọ của thầy Thọ để minh oan cho Tám, Đức và cùng xin lỗi Thầy về hành động vô lễ đã gây ra lúc ban chiều. Khoản 7 giờ tối, tôi, Ngôn và Trung có mặt tại nhà trọ của thầy Thọ. Vừa tới nơi, nhìn thấy bên trong nhà, Thầy đang tiếp chuyện cô Phương (cũng là nữ sinh cùng trường) chúng tôi rất mừng; vì sự có mặt bất ngờ của chúng tôi khiến cho thầy Thọ không được tự nhiên khi tiếp chuyện cô Phương. Tận dụng cơ hội, chúng tôi bước tới trước cửa phòng khách xin được gặp thầy Thọ. Vừa thấy chúng tôi, thầy Thọ ngoắc chúng tôi đến, thầy Thọ nở nụ cười nhân hậu và nói với chúng tôi: lần này Thầy tha lỗi cho các em. Nếu còn tái diễn, Thầy sẽ không tha nữa đấy nhé! Chúng tôi mừng rỡ, rối rít cảm ơn Thầy và nhanh chân ra về.
Nhớ lại, lúc bấy giờ, ngoài thầy Thọ còn có một số học sinh các lớp lớn của trường cũng tìm cách làm quen với Nga Phước. Buổi chiều sau giờ học, bao giờ cũng có năm, bảy nam sinh cởi xe đạp đi qua trước cửa nhà cô Bảy (cô Bảy là mẹ của Nga Phước), đưa mắt lén nhìn Nga Phước.
Gia đình cô Bảy thuộc hộ nghèo, chồng của cô Bảy là bộ đội Nam tiến, năm 1954 hồi kết về Bắc. Cô Bảy ở lại quê nhà tần tảo nuôi ba đứa con gái nhỏ dại là Nga Phước, Nga Tuyết và Thắm. Tôi có lợi thế dễ tiếp cận Nga Phước do tôi ở trọ gần nhà cô Bảy. Cái khó là ở chỗ: làm thế nào để có thể tới nhà cô Bảy một cách “hợp lệ”! Sau khi suy nghĩ và cân nhắc kỹ, tôi mua một hộp thuốc Vitamine B12 đến nhà nhờ cô Bảy tiêm hộ. Có lần, đang được cô Bảy tiêm thuốc, tôi giả vờ chết nằm bất động. Thấy vậy, cô Bảy tỏ ra lo lắng vì sợ tôi bị sốc thuốc. Không đùa dai, tôi bật cười và vùng dậy, liền bị cô Bảy mắng yêu: cháu làm thiếm lo quá!
Một hôm nọ, vào buổi tối, sau khi tiêm thuốc xong cho tôi, cô Bảy nói phải đi công chuyện và bảo tôi ở nhà nói chuyện với em Nga Phước, chút nữa thiếm sẽ về. Tôi như mở cờ trong bụng, nghĩ đây là dịp tốt dể tôi được làm quen với Nga Phước. Nhưng rồi do quá nhút nhác, tôi không biết nói chuyện gì ra hồn mà chỉ hỏi han việc học hành của Nga Phước, rồi từ giã ra về.
Vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước, lúc bấy giờ Nga Phước là cô bé thơ ngây, hồn nhiên, dễ gần gũi, trong khi Phạm Thị Kim Trâm cũng là một người đẹp của trường, lại bộc lộ tính cách con nhà quyền quý, cao sang.
Tội nghiệp Nga Phước, mới chân ướt, chân ráo vào nhập học lớp đệ thất, đã bị cô Nguyễn Thị Kim Thư (phu nhân của thầy Hiệu trưởng Hà Như Hy) gọi lên phòng Giáo sư khiển trách: em Nga Phước phải chăm chỉ học tập, không được sửa soạn. Thầy Thọ phải đứng ra bảo lãnh rằng Nga Phước không hề dùng son phấn.
Một số cựu học sinh Trần Quốc Tuấn chúng tôi tề tựu bên thầy Hy, cô Thư vào dịp đầu xuân nhân sinh nhật của cô Thư. Bao kỷ niệm “huy hoàng” về mái trường Trần Quốc Tuấn lại hiện về. Bất nhợt nhớ tới Nga Phước sau nhiều năm xa cách, tôi ghi lại vài dòng ký ức về thầy Nguyễn Như Thọ và cô em Nguyễn Thị Nga Phước như một hoài niệm của quá khứ.