Thoáng kỹ niệm

Lê Quang Huyền
Năm sinh 1950
Xã Đức Nhuận, Mộ Đức, QN
Đệ nhất TQT . 1967- 1968
Nghề nghiệp: bác sĩ nội tổng quát.

Không có  lúc nào rãnh rỗi bằng lúc nầy, thời gian chờ kết quả thi tú tài bán. Thi xong, tôi tự tính điểm, tự tin mỉmh sẽ đậu và trả lời câu hỏi của cha tôi - duy nhất chỉ có cha- tin rắng tôi sẽ đậu.
Khi chân tôi vừa dừng lại ngang cửa nhà sách Đồi non, cô xướng ngôn viên đài phát thanh Quảng Ngãi đọc kết quả kỳ thi tú tài bán phần, tôi đứng bất động lắng nghe , khi đến tên mình tôi mỉm cươi và nhanh chóng quay ra để đi về. Hai cô nàng bán sách không biết có ngỡ ngàng không,vì có anh chàng bước vào tiệm sách,đứng nghiêm, rồi quay ra, chắc là đi vào nhà sách mà lại quên mang tiền.
Mười bảy tuổi đậu tú tài 1 như tôi ở quê cũng hiếm, có lẽ tôi là người đầu tiên. Tâm trạng nầy làm tôi lâng lâng mấy ngày và cứ thế tôi rong chơi cho đến ngày vào dệ nhất.
 Tôi từ môt trường tư thục vào được trường công Trần Quốc Tuấn, cái trường  trước đây khi thi vào đệ thất, người ta chê không ghi tên tôi vào danh sách học sinh đậu. Bây giờ đến năm mười bảy mới vào, tôi chả có cảm gíac sướng rên nào cả, lại có cảm giác tự mãn “đương nhiên vào”, hay tại cảm giác “lâng lâng “khi đâu tú tài trùm lên cảm giác được học tai một trường  đứng số một của tỉnh. Thời của chúng tôi ai học TQT được dân làng quý trọng ghê lắm, dù nghèo cha mẹ cũng không bao giờ để con mình phụ việc nhà , chớ đừng nghĩ đến công việc đồng áng hay việc nặng nhọc khác.Học sinh TQT lúc đó sướng thật, viết đến đây, tôi xin chúc mừng những bạn học TQT từ đệ thất đến đệ nhất.
 Điểm danh lớp tôi, đệ nhất B3, đến sau nầy tổng kết lại , đúng là lớp “cá biệt”, trước đó và sau đó khó kiếm lớp nào bì với lớp chúng tôi được (chỉ nói thời chúng tôi thôi), có hai ưu Dương minh Chính và Nguyễn Thân, những kỳ thi trước chưa có ai đỗ ưu hạng cả, số bình, bình thứ không cần nhớ tới, lủ khủ, sỉ số 35, có bốn bạn nữ. Đặt biệt đối với tôi, khi tôi học lớp nào có tay Quý  đen, y nhờ “hồng phúc” của tôi,  tôi chui vào lớp nào có y, Phạm Quý luôn được bạn bè bầu làm lớp trưởng, điều tra kỹ, mới hay rằng y có nghề làm lớp trưởng.
Trường bắt chúng tôi phải mang giày hoăc dép có quay sau (Sandale), tôi nhớ chỉ có một lần, tôi đi dép không quay sau, ông giám thị bảo tôi vào phòng, bỏ dép lại, đi chân không vào lớp, vào phòng mới phát hiện hôm đó có dăm bảy đôi tại đó rồi, nên cũng chẳng có gì ngại ngùng, tôi tỉnh khô vào lớp, và không có bạn nào cười chọc, có lẽ bọn chúng quá quen chuyện nầy, từ đó tôi mang giầy mãi, mỗi khi rời khỏi nhà.
 Lên học đệ nhất dường như anh chị nào cũng thấy mình lớn, nói năng nhẹ nhàng, đi đứng có vẻ khoan thai trông như những ông bà cụ non, tôi vểnh tai nhưng chẳng phát hiện ra bao nhiêu bạn có mối tình nào vắt vai, nếu có cũng chỉ là mối tình câm, đa phần do học quá nên quên yêu chăng? Học mà không chơi bỏ rơi tuổi trẻ, nên già trước tuổi là phải.
 Bọn chúng tôi, đã qua thời kỳ đọc sách Tự lực văn đoàn, Kim Vân Kiều, Chinh phụ ngâm, thơ  tiền chiến, khoái nói về  Herma Hesse,   Sartre, Nishhes, Krishnamurti … và Phạm Công Thiện. Nếu có người hỏi “ mầy đọc Guồng Máy chưa, Tư Do Đầu Tiên và Cuối Cùng chưa? Tốt nhất là trà lời là đọc rồi, để khỏi bị chê, nếu đưa ra được “môt vấn nạn” để bàn luận thì tuyệt. Trong lớp có một “triết gia”, triết gia An, chúng tôi thường đùa là Socrate, môt lý luận gia, đố có thằng nào tranh luân mà y chịu dịu giọng, (sau này Lê Văn An đỗ cử nhân văn chương trường đại học Văn Khoa, hiện nay đang hành nghề luật).
  Lớp chỉ có bốn cô, dường như dưới mắt các bạn nữ mấy anh chàng cùng lớp chỉ có học , chắng biết gì, vừa quê mùa, chẳng có biết mơ mộng, yêu đương là chuyện xa xỉ,  còn quý vị nữ mơ về nơi nào đó xa hơn, cao hơn.
Thời chiến tranh, đêm nghe tiếng đại bác, tiếng súng, không có tiếng nhạc, sáng ra mới biết mình còn sống, không có chương trình vui chơi chung, nên quan hệ nam nữ chúng tôi trở nên “hai bên trân trọng, ứng xử rất là…văn hóa”.sinh hoạt trong lớp đơn điệu, mỗi ngày như mọi ngày, lớp trưởng Quý chắc mù tịt về chuyện văn nghệ, cả năm chả nghe tiếng đàn tiếng hát nào , sinh hoạt thời chúng tôi thiếu thốn đủ bề, những anh chị có máu văn nghệ, tài năng nghệ thuật dần dần mai một, biết trách ai bây giờ, có trách cũng muộn rồi.
 Tôi mãi mê về một mối tình con, đêm làm thơ nhiều hơn học. Học tệ, dưới trung bình cũng thi tú tài 2 được vì đã có tú tài 1 nên tôi chẳng lo gì.
Tuần lễ đầu tiên ông thầy Trai ra bài tập Vạn vật, tôi được o điểm, cả lớp chỉ có một mình tôi thôi, không biết lúc chấm đến bài tôi thầy có bực không? Nhưng khi phát bài ra, tôi nhận lại bài của minh, chỉ có ghi câu hỏi, phần trả lời tôi không viết được chữ nào vì chưa học bài, đành bỏ trống, tôi thấy thầy không đá động gì đến điểm bài tập cả, thầy giảng bài mới.
 Tôi học khá môn toán, nhưng vào tháng đầu tiên, giọng Bắc “y kịch” của thầy Lạc làm tôi khốn đốn (thầy đọc chữ Y là y kịch), tháng sau chuyển thầy Vân giọng nam bộ tôi nghe được. Học được tháng , tôi hỏi thăm dò Chính, Thân, Vĩnh..tụi nó tự học muốn hết chương trính đệ nhất rồi, tôi giật mình, nhưng biết tính làm sao đây , vì tôi mang một mối tình “mênh mông”.
 Người như tôi lúc nầy lại gặp thời, ông thầy Giao dạy pháp văn. Tháng đầu tiên, mỗi khi bướcvào lớp học, thầy nổ tiếng Tây ,không nói tiếng Việt, tháng sau thầy nói Tây Việt đề huề, những tháng về sau Tây lẫn Việt cũng không còn nghe nói, thoáng vào lớp rồi thầy đi biệt, lớp trưởng Quý cũng chẳng cần thắc mắc thầy đi đâu, thầy không hề ra bài tập, thật khỏe re.
 Ông thầy thường làm bọn chúng tôi ngồi dưới lớp mĩm cười mà không dám cười, đó là ông thầy Thinh. Quần áo thẳng tắp, giày bóng lộn, đeo kính đen, mỗi khi bước vào, đứng thẳng, khoảng ba giây, cười mĩm chi, ngồi xuống, nhìn thẳng đến cuối lớp, khoảng bảy giây, lấy kính ra, đứng dậy và thầy bắt đầu giờ dạy mới ( nói nhỏ, theo Nguyễn Oai: thầy ngắm mấy em đó mầy ). Thầy Thinh còn rất trẻ, mới tốt nghiệp Đai học Sư Phạm, thầy chia chương trình dạy đều,để khi kết thúc sẽ hoàn tất Vật lý tập 1 và tập 2, thầy cho làm bài tập đều đều, mỗi lần trả bài kiểm tra thầy chơi một chiêu tôi mãi không bao giờ quên. Trước khi phát bài làm cho lớp,thầy nói : mời các ông các bà có tên sau đây đứng lên … thầy đọc rõ bốn tên có điểm thấp nhứt, đến nỗi sau nầy có người thân của tôi bên Cali gặp thầy, nhắc đến tên tôi là thầy nhớ liền.
Gần hết năm học, với bài kiểm tra có bốn câu, hai câu thuộc chương trình vật lý 1, hai câu trong vật lý 2, mới nửa thời gian làm bài tôi đã nọp bài ngay, ông thầy nhìn tôi ngạc nhiên : ông Huyền hôm nay giỏi quá ha? . tôi tỉnh khô: dạ em chưa học tập 2, ông thầy cười rất ư là thông cảm.
 Ngày thi tú tài đến thật nhanh, học ởm ờ nên tôi đâm lo, nhớ hôm thi môn nhiệm ý, thể duc, tôi tham gia thi hy vọng kiếm thêm điểm nào hay điểm đó, tổ tôi do thầy Giao chấm, đến phần thi nhảy xa, Trần văn Thích bảo để tao nhãy dùm mầy, đến khi xướng danh Lê Quang Huyền, ông bạn Thích phóng ào, ông thầy nói: khỏi đo, LQH không điểm, tôi hỏi : sao vậy thầy? thầy bảo: thằng Thích nhãy thế mầy. Tôi tắt đài, ăn gian không được , bỏ thi luôn.
 Ngày thi đã điểm, tối đó tôi ngủ tại nhà người quen trong cống Kiểu, 7 giờ tối súng nỗ dử dội, đạn cối rền trời, tôi ngủ dưới gầm giường chịu trận, ngủ quên lúc nào không hay.sáng nhờ bác họ đánh thức đi thi ông tú.
Thi xong tôi về nhà, cha tôi hỏi : làm bài được không ? tôi lây giấy ra tính điểm, tổng cọng 155 điểm, cha tôi hỏi : bao nhiêu điểm thì đậu? tôi nói: 150 điểm, tôi thấy cha tôi lặng thinh và tôi cũng lặng lẽ bỏ đi nơi khác.
 Học tài thi phận qúy vị ạ, mấy ngày sau khi thi, tôi nghe tin Bộ giáo dục cho thêm ít điểm cho thí sinh Quảng Ngãi vì lý do chiến sự, ba tuần sau kết quả thi được công bố, tôi có tên trong danh sách bốn mươi phần trăm đỗ ống tú toàn. Hú vía, từ đó tôi có uy tín với cha mẹ tôi lắm…Duy chỉ có điều oan ức cho các bạn cùng lớp, đồng lớp, học giỏi, vì từ đây các ông tú năm 1968 có biệt danh “Tú tài Mậu thân”.
 Tính ra, đến hôm nay, con số 43 năm quá lớn, nghoãnh lại quá nhanh. Mỗi lần ngang qua trường TQT tôi thường tự hỏi, quý thầy cô, bạn bè ai còn ai mất, ai được ai không…và trôi dạt về đâu, lòng vương chút bùi ngùi...
Thoáng kỹ niệm riêng tư, góp tấm lòng bạn bè, nhất là khi còn có thể gặp lại.
                                                                                                                LQH






QUÊ LÀNG TÔI
Dòng Vệ giang xuôi bờ xanh chảy xiết
Nước dâng cao ngập cả những con đường
Mưa sáng chiều lũy tre làng xơ xác
Bải mía, dâu run rẫy chẳng thêm mầm
Cả ruộng đồng phủ một màu trắng đục
Về nơi nào , mỏi mệt cánh cò nghiêng
Đường làng quê bóng người qua lặng lẽ
Bếp nhà ai khói quyện dưới mưa chiều
***
Nắng lên rồi bên đường hoa khoe sắc
Từng đoàn người trẩy hội đón xuân về
Làng quê tôi như tỉnh giấc sau mê
Cây thêm lá hương đòng đòng thơm ngát
Gió đẩy nhịp lá mía reo khúc hát
Trên sông xanh kẻo kẹt guồng xe quay
Lũ học trò mơ một mùa phượng đỏ
Những trò chơi cuốn hút ước mơ xanh
***
Quê tôi đó với hai mùa mưa nắng
Cha mẹ dãi dầu tích cóp vì ai
Chúng lớn lên trở thành người viễn xứ
Chiều nhớ nhà dõi mắt cỏi xa xăm

KHÔNG ĐỀ
Hoa có hương có sắc
Rực rỡ rồi chóng tàn
Tình không màu không nhạc
Da diết nhớ trăm năm
***
Tỉnh ra đầu đã bạc
Tình không sắc không hương
Trăm năm nào có nhạt
Hương sắc nào? Vấn vương
                     
KHÔNG ĐỀ
Tôi sợ thiên đường quên đóng cửa
Thiên thần dẫn độ tống tôi vào
Sống cõi trần gian, gian khổ thế
Mà vui khôn xiết, kể sao vừa.
Lê quang Huyền