MỘT QUÃNG ĐỜI

Nguyễn Cư Trinh


      Ở Pháp, trời năm nay gần Noel sao mà lạnh hơn mọi năm, nhất là tuyết rơi nhiều, phủ trắng vạn vật, và không tan suốt cả tuần. Tuần rồi Paris và nhiều tỉnh ở Pháp bị tê liệt vì tuyết, mới ấm lên vài hôm những tưởng đã thoát, nào ngờ tuần này trời lạnh trở lại , và tuyết lại rơi không ngừng.Mỗi lần tuyết sắp hay đang rơi, người sao thấy nhức mỏi. Đúng là mình đã có tuổi. Trong tuần, nhận được mail cuả anh Lê văn Công bạn cùng lớp năm xưa nói về việc anh chị em cưụ học sinh TQT muốn ra mắt kỷ yếu thập niên 1960. Đang đi cày nên bận, để đó. Tự hẹn cuối tuần sẽ hay.
        Sáng nay dậy tập thể dục, ăn sáng cơm nguội bỏ vào lò vi ba với cá bống sông Trà bà chị họ mua giùm gởi qua. Vừa ăn vừa nhìn tuyết đang rơi, phủ trắng ngần mọi thứ, buồn !  Cái xứ Quảng nó vẫn theo mình tới đây, và có lẽ theo mình tới xuống lổ. Ở cái nước Pháp thừa mứa vật chất này, tôi vẫn thích ăn cơm nguội hấp nóng lại với thịt kho mặn, hay muối đậu, muối mè như ngày xưa ở quê nhà, và uống trà trước khi đi cày. Nay lại được ăn cá bống sông Trà – quí làm sao, nên ăn chút chút, sợ hết sớm ; thỉnh thoảng lại lôi ra ăn với bánh tráng mè nướng trong lò vi ba và uống bia nữa.
          Tuổi thơ cuả tôi  gắn liền với nghèo khổ, và ăn nhờ ở đậu. Suốt thời tiểu học, hoạ hoằn lắm mới được ăn một cục kẹo. Cha tôi đi tập kết hồi tôi sáu tuổi, đem anh chị tôi theo ; mẹ tôi ở lại với em trai tôi ba tuổi, em gái út mới một tháng, và bà chỉ mới 32 tuổi. Lớp nhì, lớp nhất tôi ở nhờ nhà ông cậu Mười ở xã trên để đi học, sát bên trường Tiểu học Đức sơn gần Đồng Ngỗ, vì mợ tôi phụ trách nhà hộ sinh xã này. Năm 1960 thi vào đệ thất TQT không đậu. Tôi biết mình thiếu cái gì _ và mãi đến sau này cũng thế . Kể ra thì tôi cũng sáng dạ, nhưng không có thầy giỏi chỉ cho mình phương pháp học. Tiểu học thì tôi dở về số học, nên không đậu vào đệ thất ở trường TQT được là phải.
           Thế là Trung học đệ nhất cấp tôi phải học trường bán công Nguyễn công Trứ ở Thi phổ, Mộ đức từ 1960 đến 1964. Tôi lại ở nhà bà nội để học bốn năm từ đệ thất đến đệ tứ; không có bà nội nuôi tôi thì không biết đời tôi sẽ thế nào. Từ năm đệ lục, tôi thấy mình lại có khiếu về đại số, tự tìm tòi, hiểu  và học toán khá. Thầy ở trường trung học bán công hồi đó thường chỉ có Tú Tài I , cao lắm là tú tài II. Cũng may về Pháp văn thì có thầy Nguyễn Định (Đốc Định) dạy rất kỹ ; thầy Định cùng thế hệ với ông Trợ Đức, làm thầy cho không biết bao thế hệ học trò; về Toán thì có Huỳnh Bồng và nhất là Đặng Lân, nên tôi được khai tâm, cứ thế tiến lên. Nhưng tôi biết, tôi khá đều các môn, mà không xuất sắc nhất về môn nào  như vài anh bạn khác, ví dụ Đặng thế Thiêng, Trần đình Lãnh, Nguyễn Nước về toán.
            Hồi đó tới đệ tứ phải thi tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp. Cũng may Lãnh, Thiêng và tôi đậu bình thứ, nên được vào học TH đệ nhị cấp ở trường TQT, trường số một cuả tỉnh.
           Năm đầu, đệ tam, tôi ở trọ phiá dưới cống Kiểu, nhà cô Sáu, dâu bà Trình ; bà Trình là mẹ anh Phạm minh Thông. Anh này học TQT trước tôi, nghe đâu trước đó học rất giỏi, nhưng kỳ thi thể dục về ném tạ, đứng xem, bị ném trúng đầu suýt chết, từ đó không học được như trước. Cô Sáu ở sát vườn nhà Phan Thông, cho học sinh ở trọ khá nhiều. Phan Thông học sau tôi một lớp, nghe đâu anh học rất giỏi. Nhà Phan Thông thì có chị Bạch ngọc Châu cùng lớp với tôi ở trọ. Chị Châu sau này là vợ cuả Phan Thông. Cái duyên Châu Trần chắc cũng khởi nguyên từ ngày đó. Nhà bà Trình thì có chị Lê thị Kim Nở, người ở Châu Ổ, Bình Sơn  học cùng lớp tôi ở trọ. Tới nay tôi cũng còn nhớ chị, vì chả biết sao, chị hay kê tủ đứng tôi, bằng cách như khịt mũi thành tiếng ừ hứ, rồi thêm chữ « vô duyên » !
          Hàng tuần tôi phải đạp xe, hay đi xe lam  về nhà, mang ruột nghé gạo ra cho cô Sáu. Cô Sáu chỉ lấy tiền chợ. Ở chung với tôi còn có Nguyễn thu Sa, cũng từ Mộ đức ra, về sau học Văn Khoa, cử nhân triết và dạy triết cũng như Lê văn An. An thì cha mẹ tập kết ra Bắc hết, chỉ có hắn ở lại, nên thuở nhỏ hắn cũng cơ cực như tôi. Tôi học với An từ tiểu học. Hắn đặc biệt có cái đầu rất lớn, đậu vào TQT từ đệ thất, học giỏi nhưng không hiểu sao lại bị tụt lại một năm; trước1975 học Triết, dạy Triết, nhưng sau 1975 thì học luật, có TS luật, nay làm luật sư ở Quảng ngãi.
          Tôi cũng  nghe có anh Nguyễn văn Chừng, ở Lương nông, Mộ đức đang học ở TQT, anh cũng là đồng hương với tôi ; từ Quốc Lộ I (còn gọi là « đường cái quan  ») ở Thi phổ đi xuống nhà anh, thì đi qua trước nhà bà nội tôi. Quê anh ấy sát biển Minh Tân, rất nghèo, còn mang tê Cà Đó,có thể nói nghèo nhất ở Mộ đức, chuyên trồng thuốc lá trên đất cát. Có lẽ anh cũng như tôi, mang ruột nghé gạo đạp xe ra tỉnh « du học » ?
         Sau đó tôi ra ở trọ nhà ông Giáo Cư sát sau trường TQT, tôi chỉ mang ruột nghé gạo ra, và tièn chợ với ở thì miễn phí, bù lại tôi phải dạy kèm cho hai đưá con cuả họ. Ông Đoàn Cư ngày xưa gốc thầy giáo, lấy một bà khoảng tuổi cuả mẹ tôi và bà con với mẹ tôi. Do chỗ bà con đó tôi mới được ở nhờ và dạy kèm sát trường TQT. Sau 1954 ông CƯ học cán sự y tế và làm y tá, hành nghề y … Mãi sau này, cách đây trên 10 năm, đứng ở thư viện trên lầu trường TQT nhìn ra ngoài, tôi lại thấy bảng hiệu đề : « Bác Đoàn Cư, hành nghề y lâu năm ». Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về…tôi đã ở trong căn nhà đó gần một năm.
          Lên lớp đệ nhị, khoảng giưã năm tôi lại ra ở nhờ bà cô ruột ở đường Quang Trung, sát ngã tư chính, đối diện đúng ngay tiệm buôn Phạm Mai. Chị Phạm thị Nhạn, học cùng lứa với tôi nhưng khác lớp, là con bác Phạm Mai. Cô tôi buôn ở đó thì tất nhiên là khá giả, nên tôi thoát khỏi chuyện mang ruột nghé gạo ra tỉnh; chỉ dạy kèm các em  và khuân hàng cho cô mà thôi. Những lúc rãnh rỗi, tôi đứng phiá trước nhìn qua đường, thấp thoáng thấy chị Nhạn trong tiệm. Nhạn về sau lấy chồng cũng là người bà con trong họ cuả tôi, họ Nguyễn đức ở Thi phổ ; anh này tốt nghiệp cán sự hàng hải, Phú thọ.
          Bạn bè cùng lưá  mà tôi còn nhớ rõ là :Trần Minh Tâm, Đạng Thế Thiêng, Trần Đình Lãnh, Lê Văn Công, Lại Hoàng Ân, Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Tú, Lý Phước Kiến, Lê Văn An, Đinh Tấn Phúc, Nguyễn Tấn Khiêm, Nguyễn Thái Uyên (Uyên là con GS Nguyễn Diễn, ông ấy cũng là bạn học cuả ba tôi ngày xưa ; nhưng tôi không học với ông cũng như với GS Nguyễn Văn Hàm như các bạn học từ đệ thất lên) ; còn Nguyễn Quang Đoá thì học sau tôi một lớp; bên nữ thì có Kim Nở, Xuân hoa, Xuân hoà, Xuân Hồng, Cẩm Giang, Thuận Linh, Sám Hối, PTNhạn.
           Chiến tranh và loạn lạc ngày càng gia tăng cường độ, quê tôi bị cày nát, má tôi cũng như mọi người phải ra tỉnh tạm cư, ở nhờ nhà cậu Mười tôi. Cậu cũng chạy ra tỉnh tạm cư, nhưng có nhà phiá trên cống Kiểu, ngã ba bungolow đi lên rồi rẻ vào tay trái. Tôi về ở nhà cậu Mười, má tôi thì nấu bánh ú gánh đi bán với mợ Bốn. Thời đó ở trong quê không ở được nữa ; trường Nguyễn Công Trứ đã thành bình điạ. Vài năm trước, những người đàn ông trung niên chiều chiều còn đạp xe từ Thi phổ ra tỉnh ngủ, sáng đạp xe về lo công việc nhà (cái từ « đi ngủ » ai ở thời đó mới biết ); giờ thì  họ phải ở luôn ngoài tỉnh, cho đến 30/4/75.
Đi học hàng ngày, tôi thường băng qua trước nhà trọ cuả Nguyễn Tú, Nguyễn Oai, hai anh chàng này ở gần một lò nước mắm, chắc họ cũng là dân Đức hải (nay là Đức lợi) chạy ra tạm cư. Tú học với tôi cùng lớp, Tú nghe đâu qua Mỹ, nhưng tôi không liên lạc được ; Oai học sau một lớp, về sau thành giáo viên Toán cấp 3 ở TQT.
          Đệ tam, đệ nhị, cứ chủ nhật là tôi đạp xe về trong quê với bà nội và mẹ tôi nên không nghỉ ngơi, chơi đuà với bạn bè ở tỉnh, vì thế tôi rất ít bạn bè, ngoài bạn cùng lớp. Về nhà thì nguồn bổ dưỡng cuả tôi chỉ là mấy cái trứng gà mới đẻ, còn nóng ấm, lấy ra và dùng kim băng, hay gai tre già, đâm hai đầu rồi hút, ấm, mặn mặn rất ngon. Gà cũng là nguồn tài chánh mà má tôi thỉnh thoảng bán để trả học phí cho tôi học ở NCT trước đây, hay tiền ăn học ở TQT ngoài tỉnh.
         Tôi học đúng tuổi, nên so với rất nhiều bạn bè, tôi có lẽ nhỏ nhất ; tôi còn nhớ hồi học ở đệ nhất cấp, một số anh cùng lớp đã có vợ con đùm  đề rồi.Vì nhỏ nên các bạn gái cùng lớp, cùng lưá dù cùng tuổi đi nữa tôi cũng cứ xem như đàn chị, gọi bằng chị hết; nào biết đến yêu đương là gì. Dù sao thấp thoáng cũng thấy lòng man mác với ai đó !
     Thỉnh thoảng nghe các anh nói về người đẹp Nga Phước là hoa khôi cuả tỉnh nhưng tôi chưa từng biết mặt; nào thầy Nguyễn khoa Phương với cô Quỳnh Nhì ; thầy Giao (dạy pháp văn) chinh phục được cô Trâm;  Trâm thì quả thật rất đẹp, tôi không học cùng với chị, chỉ học với Xuân Hoa, Xuân Hoà, Xuân Hồng, Bạch ngọc Châu, Nhạn, Kim Nở, Thuận Linh. Thuận Linh là con Ông Nguyễn Biên hiệu trưởng trường Chấn Hưng, nay đang sống ở Úc, cách đây vài năm có qua Paris, và đưa con trai đang học luật sư ở London ghé thăm tôi. Cùng lưá còn có chị Dạ Lan, Sám Hối, Cẩm Giang. Các anh lớn quái quỉ cùng lớp trên lầu phiá sau trường thì cứ hay xầm xì  cô này lùn thấp nhưng ngực bự, cô kia cao gầy nhưng ngực cũng to, mỗi giờ đến lớp, hay ra chơi, các ông ấy lại ưa bẻ phấn từ trên lầu ném xuống ngực các cô, trúng  thì cười hô hố như là đã thắng lợi lớn lắm.
        Tôi không học tiếng Pháp với thầy Giao, nhưng có lần cũng qua lớp thầy nghe thầy diễn thuyết về sách Exodus, chuyện người Do thái lưu lạc khắp nơi, trở về lập quốc ; tôi phục thầy lắm.  Thầy Duật, thầy Sáu Bé thì dạy Triết, thầy Bùi khắc Lạc, Lê quang Chưởng dạy Toán, thầy Lạc là giáo sư chính, thầy Chưởng thì dạy các trường khác, nhưng thỉnh thoảng có vào dạy thế thầy Lạc. Hai ông này thì khác nhau lắm, thầy Lạc dạy bằng lời, nói nhiều hơn ; còn thầy Chưởng thì dạy cours rất nhiều, nên giữ hơi, chỉ viết trên bảng là chính. Thầy Thinh dạy vật lý, cũng là dân Mộ đức, chắc cùng quê với anh Chừng . Cách đây 10 năm, tôi qua Mỹ ở San Jose có ghé thăm thầy Thinh. Thầy cho hay thầy Lạc đang bị bệnh tiểu đường rất nặng. Thầy Phạm văn Ninh dạy vật lý lớp đệ nhất; sau 1973, về sau làm việc ở Cần thơ tôi lại gặp thầy và vợ là cô Lài cũng là cô giáo, tôi cũng thường ghé thăm. Hiện nay gia đình thầy định cư ở Mỹ. Đặng thế Thiêng  sau khi tốt nghiệp cũng về dạy ở Cần thơ.
         Cô Kim Đính vợ ông hiệu trưởng Nguyễn khoa Phước, vừa đẹp vừa giỏi, dạy thiên văn học rất hay ; còn ông Phước thì tôi chẳng thấy ông dạy cái gì ; vai trò chỉ mờ nhạt ở trường.
Thầy Chấn dạy điạ lý, có lần sau trận bão lụt lớn, đã giải thích hiện tượng tại sao nước lụt lúc dâng cao, lúc hạ thấp, rất là khoa học, và dễ hiểu. Thầy là dân Bắc kỳ, lại có khoa ăn nói. Thầy Phái dạy Sử có lần đưa cả lớp chúng tôi đi du ngoạn xuống tận Cổ luỹ .Đi chung cả lớp như vậy rất vui, và các bạn cùng lớp có nhiều kỷ niệm bền lâu , chứ học ở lớp thì ai cũng bị gò bó. Lần đó tôi tắm biển, bơi rất nhiều, và ra xa một cách nguy hiểm. Tôi và Nguyễn quang Đoá ngày xưa ở cùng thôn, có tí bà con, từ bé sống bên sông Thoa, nên biết bơi , nhưng chỉ là sông nhỏ, đâu có từng bơi trong sóng biển lớn bao giờ. Tôi chưa hề chơi được môn thể thao nào cho ra hồn, ví dụ bóng chuyền, bóng tròn, kể cả bóng bàn, vũ cầu. Từ sau lần bơi đó, cả lớp mới biết cái thằng gầy còm như tôi, chả bao giờ thấy chơi thể thao, hoá ra là một tay bơi khá.
          Tiếc thay, các thầy Sáu Bé, Chấn và Phái nghe đâu đều chết ở Quảng ngãi vào tết Mậu Thân.Nói chung, hồi đó các thầy còn rất trẻ, thường là  mới tốt nghiệp ĐHSP không lâu.
         Tôi còn nhớ về thể thao, hồi đó trường TQT có Thái cực đạo, được các sĩ quan quân đội Đại hàn đến huấn luyện. Tôi cũng tập được ít lâu nhưng có lẽ thể chất không hợp nên không theo đuổi như các bạn khác. Tập ở sân phiá sau trường. Tôi còn nhớ có anh Huỳnh, tập tạ và thể dục thẩm mỹ nên thân hình rất đẹp, anh ta thích khoe thân thể mình nên ra sân tập thái cực đạo mà không mặc võ phục, cứ để thân trần. Về sau anh có huyền đai, hình như sau này nhập ngũ anh dân dần lên đến 3 đẳng. Người ta kể lại, trên đường vượt biên, tàu anh bị bọn cướp biển  Thái lan tấn công. Chúng cướp, hiếp dâm nhiều lần, anh tức giận đánh quị mấy tên hải tặc, rồi sau đó bị chúng bắn chết !
          Ngoài ra, trường TQT hàng năm còn hay tổ chức đua xe đạp chậm. Ai chậm nhất và lâu nhất mà chân không chấm xuống đất mới thắng. Học sinh đứng xem , cổ vũ la hét rất vui nhộn. Có những anh rất giỏi, ngồi trên xe đạp, hơi bẻ ngang tay lái, và chiụ như thế mà không hề chấm chân xuống đất. Tôi hồi đó không có lấy chiếc xe đạp để đi, lấy đâu mà tập dợt. Ông cậu thương tình cho chiếc xe đạp cũ, mới đi được ít lâu thì khi ra ở nhờ nhà bà cô, nhà buôn không có chỗ để, ban ngày đem ra dựng phiá trước, thế là một hôm nó không cánh mà bay mất ; tôi lại đi bộ  và có về quê thì đi xe lam.
            Nhờ trời sáng dạ, tôi và Nguyễn Đình Bảo đậu bình tú tài I năm 1966.  Bảo về sau học y khoa. Nghe thế nhưng tôi chưa hề gặp lại.
         Năm 1967, tôi đậu Tú tài II ; năm ấy toàn trường chỉ có 7 người đậu bình thứ, trong đó có tôi, không có ai đậu cao hơn như những năm sau này. Rồi tôi vào Saigon học Đại học. Năm đầu cũng cái cảnh ăn nhờ ở đậu với một ông anh họ ngoại xa, có sạp báo ở Ngã Bảy SG, bán báo phụ anh, ồn ào, bụi bặm, do đó cũng không có điều kiện tốt để tập trung học thi vào các trường lớn như Phú thọ, Sư phạm, Y khoa, như Lãnh, Thiêng, Ân…Tôi rất ít khi về lại Quảng ngãi. Chỉ về tết năm Ất dậu. Đêm ngủ ở nhà bà cô ở Ngã Tư chính thị xã, bị pháo kích, tôi bị thương vì đạn cối. Đến nay, trong thân mình cũng còn khá nhiều mảnh đạn nằm sâu trong đó. Sau đó, mẹ và các em tôi vào sống ở Sài Gòn. Nhờ cái vốn học có căn bản, khá đều nhiều môn ở TQT trước đây, nên đã giúp tôi đậu vào trường Quốc gia hành chánh (QGHC),. Ở  trường này, thì  từ năm thứ hai đã có lương, tôi thoát được đời cơ cực.
         Trường Quốc gia hành chánh không thuộc hệ khoa học kỹ thuật(KHKT), nên  khi qua Pháp 1979, tôi gặp nhiều khó khăn. Pháp là một nước, mà người nước ngoài  phải có bằng cấp KHKT thì mới có thể có đất đứng khá. Đó chính là một trở lực lớn cho tôi, cũng như nhiều bạn khác cùng học Quốc gia hành chánh khi qua Mỹ, Úc, Canada... Nhưng nhìn lại, những người đậu vào QGHC đều là cựu học sinh khá cuả các trường Trung học hàng đầu ở Sàigòn như Pétrus Ký, Chu văn An, Gia Long, Trưng vương, hay trường hàng đầu các tỉnh. Các bạn tôi cũng như tôi khi ra nước ngoài thời gian đầu lớ ngớ, dù tuổi đã lớn, ngôn ngữ cũng không phải tiếng mẹ đẻ, nhưng nhờ cái vốn vững chắc thời Trung Học cũng giúp chúng tôi bắt kịp người, dành được chỗ đứng khá giả ở nước ngoài.  Một mặt nào đó tôi lại mang nợ trường TQT.
         Kiến thức về Quảng ngãi cuả tôi hồi đó rất hạn hẹp, tên các quận tôi đều biết, nhưng ngay cả Mộ đức tôi cũng chỉ biết một số xã ven quốc lộ, phiá trong thì chỉ đến Thiết trường chứ chưa hề đi vào tới Đức phổ ; phiá bắc thì cũng chỉ ra xa nhất tới Châu ổ khi ra thăm nhà chị Lê thị Kim Nở. Nghiã hành, Ba tơ, Minh Long còn chưa đến, nói chi đến Sơn hà, Trà bồng. Tư nghiã thì chỉ lên đến Nghiã lộ, Nghiã kỳ, và xuống đến Thu xà, Cổ luỹ ; Sơn tịnh thì cũng chỉ đến núi Thiên ấn, Châu sa, Sa kỳ. Nói chung, phiá ngoài sông Trà khúc thì tôi cũng hiếm khi ra, nhưng nhớ rất kỹ các bờ xe nước. Tôi hay lên nhà dì Sáu _ lấy chồng ở Nghiã lộ, nhà dì khá giả nên thỉnh thoảng tôi có được ăn cá thài bai kho khô trong trách đất, ăn với bánh tráng nướng rất ngon ; cá thài bai là đặc sản cuả sông Trà hình như đã tuyệt chủng từ rất lâu ; đôi khi tôi cũng được ăn cá bống sông Trà. Nhà dì có lò đường, nên tôi cũng được ăn đường dẻo, đường phèn, đường phổi, và cả đường cáu (mật để lâu kết tinh như hạt sạn) ; quê tôi ở Mộ đức thì có bánh tráng, mạch nha và bún ; con dì là anh Nguyễn tấn Khiêm cũng học cùng lớp với tôi ở TQT, sau ra Huế học ĐHSP Sử điạ. Hình như Phan Thông cũng ra Huế học. Em trai cuả Nguyễn tấn Khiêm là NTSảnh, cũng học TQT sau chúng tôi 2 năm, về sau học Cán Sự công chánh Phú thọ, giờ đang sống ở Mỹ.
         Các bờ xe nước trên bờ sông Trà khúc quay suốt ngày đêm, các ống tre và cả bờ xe đóng rêu xanh, liên tục đổ nước xuống các máng, nhạc nước rì rào. Các bờ xe giờ này đã biến mất. Đó chính  là cái dở cuả người Việt nói chung và người Quảng ngãi nói riêng về việc bảo tồn bảo tàng các di sản cuả cha ông. Ở Pháp người ta trân quí cái cổ, không ai nỡ phá bỏ nó; nhà cầm quyền nào phá bỏ quá khứ đều bị dân coi là tội ác với dân tộc, với lịch sử, và cho về vườn trong kỳ bầu cử sau đó ngay. Đi đó đi đây ở Pháp và ở châu Âu, tôi cũng thấy các guồng xe nước, hay cối xay gió cũ, ngày xưa họ dùng để xay bột mì, nay thì để du khách thăm viếng. Và từ từ, vì môi trường, ngày nay họ lại đang phục hồi chức năng cuả cối xay gió, xay nước. Trong khi đó, bờ xe nước ở Quảng ngãi một khi đã mất là vĩnh viễn mất luôn !
             Cách đây gần 10 năm, lên Đà lạt chơi, tôi ghé thăm khu Suối Vàng , nơi có nhà máy cấp nước do anh Trần Đình Lãnh, Kỹ sư công nghệ Phú thọ làm giám đốc, anh là bạn cũ ở NCT và ở TQT . Anh ấy đã biến khu này thành khu du lịch nổi tiếng nhất Đà lạt, cứu vớt phần nào cho mỹ nhân Đà lạt đã bị rạch mặt, vì những xây cất bưà bãi, bát nháo phiá ngoài phố hay phiá trên đồi. Tình cờ tôi lại được thấy một guồng xe nước giữa hồ, giống như bờ xe nước như trên bờ sông Trà khúc năm xưa, với kích thước thu nhỏ, do anh đã tái lập. Có lẽ trong thâm tâm, người dân Quảng ngãi dù lưu tán ở đâu, cũng mang theo trong tâm khảm cái xứ Quảng nghèo, và lắm vấn đề quan hệ đời thường, nhưng họ gạn lọc để chỉ giữ lại những cốt lõi ấn tượng nhất, thân thương nhất. Lãnh đã để lại một dấu ấn sâu sắc cuả người Quảng ngãi trên Đà lạt, cũng như nhà thầu Võ đình Dung (người Nghiã hành) trước đây  đã để lại dấu ấn với chuà Linh Sơn và toàn thể các biệt thự kiểu Pháp ở Đà lạt từ thập niên 1930.
           Từ 1993 , tôi hay về VN thăm gia đình, thỉnh thoảng có về Quảng ngãi, lo việc mồ mả bên nội, bên ngoại. Khoảng 1995, dừng chân trước trường TQT, giờ đã đổi thay nhiều, tôi không vào trường, chỉ đứng tần ngần trên lề đường, cố tìm xem có gì còn lại như trong tâm tư mình vẫn nhớ không. Chỉ thấy trên lề đường trước cổng trường còn một cây phượng già, thân, gốc rêu xanh bám…Học trò ra vào cổng đi xe đạp như xưa, nữ sinh mặc áo dài trắng ; xe honda hồi đó còn ít ; tôi thật xúc động. Cái thằng học trò nhút nhát, ngày xưa chuyên ăn nhờ ở đậu đây đó là tôi, dù sao nay cũng có cái ăn cái mặc, nay trở về đây, đứng ở đây…Chắc Quảng ngãi còn  nhiều, rất nhiều học sinh khác vẫn bị cái đói cái nghèo triền miên kềm hãm bước tiến cuả mình. Tôi quanh ra đường bên cạnh, ghé thăm nhà ông Đoàn Cư; nhà bảo sanh cuả ông không còn nữa. Hồi xưa các bác sĩ ra làm việc ở Quảng ngãi thường mướn chỗ này làm nhà bảo sanh (BS Hùng), hay phòng mạch (BS Hoàng đình Hiển), ông chỉ còn giữ được phòng mạch cho mình. Con trai ông, người trước kia tôi dạy kèm, đã du học tại Bỉ, tốt nghiệp bác sĩ, và định cư ở Bruxelles; chúng tôi vẫn thường qua lại thăm viếng nhau. Bạn bè tôi ngày trước nếu không được may mắn đậu vào các trường tốt (sẽ được hoãn dịch vì lý do học vấn hay công vụ, và nhờ thế còn sống như tôi) thì đều bị động viên. Và bạn  từ thời tiểu học đến trung học, cũng có nhiều người « nhảy núi» đi du kích ; bên nào cũng có nhiều người đã chết, hay tàn phế. Còn lại những người may mắn còn sống , có người lên voi, có kẻ xuống chó; tứ tán khắp các miền trong nước hoặc  nước ngoài. Dù chính kiến có bất đồng, nhưng hễ nhắc đến TQT , đến Quảng ngãi, thì mắt ai cũng sáng lên, nhận đồng hương, nhận bạn học cũ, nhận anh em. Ở Paris, tôi đã được đón tiếp anh Nguyễn văn Chừng qua Pháp tu nghiệp, sau đó là Lê văn Công ; và cách đây 2 năm lại có dịp đón tiếp Dương minh Chính, những cựu học sinh TQT.


                Tôi trở qua Paris, lòng vẫn muốn làm cái gì đó cho trường TQT, nên có viết thư về trường, tự giới thiệu, và ngõ ý giúp một số học bổng cho học sinh nghèo và xuất sắc ở trường, hoặc cựu hs cuả trường nhưng đậu vào các trường ĐH về KHKT ở SG, bất kể quá khứ lý lịch. May thay, bạn cũ có anh Nguyễn Oai về dạy Toán tại trường TQT, nên đã xác minh cho tôi, và chuyện cấp học bổng được tiến hành tốt đẹp. Ngoài ra tôi cũng biếu thư viện cuả trường một số sách giáo khoa, cũng chú trọng về KHKT ; tôi nghĩ rằng cái tỉnh nghèo cuả mình muốn thoát khỏi cảnh cơ cực thì phải đầu tư vào cái đầu óc khoa học, kỹ thuật. Phải thông thái, sáng tạo, và có trách nhiệm ; chứ chuyện khoa học xã hội thì tôi xếp hàng thứ yếu, kiếm chẳng ra cơm. Tôi quan niệm rằng các học sinh giỏi khi ra trường, thành công, nếu không biết nghĩ đến ngươì khác thì ít nhất vợ chồng con cái y cũng no đủ, nhưng không đáng nói làm gì. Còn những người thành công, làm giàu, tạo công ăn việc làm cho rất nhiêù gia đình trong tỉnh thì cả huyện, cả tỉnh được nhờ, có khi cả nước nữa, đó mới là có đạo đức cao nhất.
          Chương trình học bổng của tôi tuy số lượng không bao nhiêu, và số tiền mỗi học bổng cũng không cao, nhưng nó cũng nói lên được một tinh thần hướng đến người khác. Rồi kỷ niệm 50 năm trường TQT vưà qua, nhiêù người cũng đã giúp học bổng, theo cách cuả họ. Cách nào cũng tốt, miễn là lòng ngừơi rộng mở, và đồng tiền được sử dụng cho đúng người, đúng việc, không bị lạm dụng. Đến nay, chương trình này cuả chúng tôi vẫn tồn tại, nhưng tôi đã chuyển về giúp học bổng cho sinh viên Đại học gốc Quảng ngãi, vẫn ưu tiên cho TQT, vì ở quê, chúng tôi thiếu người đại diện.

            Hồi ức thì cứ miên man… Tôi không biết làm thơ, nhưng cũng thích  « sáng tác » vài câu :

Bạn có còn thèm cá bống ?
Tôi vẫn mãi thèm !
Bạn có còn mang nợ ?
Nợ ai ? nợ gì ?
Nợ cái nghèo, nợ quê hương, nợ trường xưa;
Tôi vẫn nợ hoài,
E suốt đời không trả nổi !


Paris, muà Noel 2010, lạnh và buồn.
NCT