HÀ NHƯ HY
NIỀM VUI … NỖI BUỒN
(Kỷ niệm những ngày sống làm việc ở trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi)
Mến gửi các em cựu học sinh Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi
họp Đại hội tại Sài Gòn 9.1.2011
Tám năm, cứ cho là 8 năm chẵn đi, đối với cuộc sống thì không “là mấy” nhưng đối với chàng trai trẻ, với nhiệm vụ nặng nề đè nặng đôi vai thì đó là quãng đường đời không ngắn. Thế nhưng chàng vẫn một mình bước đi, vượt bao chông gai, thử thách lo toan mọi bề, buồn vui lẫn lộn. Thành công hay không xin để những người bạn đường, người thương, kẻ ghét nhận xét, nhưng đối với chàng trẻ thì thời cuộc đã cất bỏ gánh nặng cho chàng, chàng rời chức vụ, tuy với chút vị nghẹn ngào cay đắng trên môi, chàng vẫn mỉm cười ngẩng cao đầu tự hào mình đã vượt qua thử thách với tất cả ý chí và tấm lòng.
Tôi đã rời Quảng Ngãi, từ giã trường Trần Quốc Tuấn thân yêu của tôi trong tâm trạng ấy: dắt dìu “em” từ lúc tập tểnh biết đi mà nay “em” đã vững vàng mạnh bước, buông tay “em”, nhìn theo “em” trong ánh sáng thành công rạng rỡ mà trong lòng sung sướng nở như hoa, nhưng sao tránh khỏi ngậm ngùi thương nhớ … “em tôi”.
Điều khiển là chỉ huy nhưng không chỉ là mệnh lệnh. Theo ý tôi, phải dung hòa “cương – nhu”, có uy mà cũng phải có ân, tình lý xếp đặt sao cho đúng lúc, đúng chỗ. Nên nghĩ rằng “điều khiển là phục vụ”, tìm hiểu rõ nhu cầu của đối tượng để hướng tới.
Cá nhân và tập thể đạt được hài hòa trong sinh hoạt. sự cảm thông đôi bên sẽ làm cuộc sống vui vẻ nhẹ nhàng. Tôi đã sống và làm việc trong quan niệm ấy. Biết rằng cứng rắn sẽ tạo ra oán trách chống đối, mềm yếu quá sẽ đưa đến lạm dụng mất kỷ cương. Giữ thăng bằng trên dây không dễ. Tôi đã có lúc bị đong đưa ngày đêm suy nghĩ cách xử trí để giữ thế thăng bằng, đem lại yên vui, hòa hợp trong cuộc sống hằng ngày.
Đường đời luôn luôn có nhiều chuyện buồn vui, có thể xem đó là những âm thanh trầm bổng trong khúc nhạc đời.
Ngay từ khi bước chân đến Quảng Ngãi, buồn lo đã ập đến trên tôi, lo thì chuyện đương nhiên, lo vì công việc quá bộn bề với những phương tiện quá nghèo nàn; lo không ngại, buồn mới thật làm nản lòng “khách tha phương”.
Chính quyền địa phương đã có thành kiến không mấy tốt đẹp đối với trường, với vị tiền nhiệm của tôi, bây giờ gặp một ông hiệu trưởng nhỏ người, non tuổi không biết có “làm ăn” gì được không.
Trường Trung học Trần Quốc Tuấn phải đặt dưới quyền điều khiển của Ty Tiểu học. Lễ khai giảng niên khóa mới 55-56 phải do Ty Tiểu học chủ trì.
Vì uy tín của ngành Trung học, vì thể diện của Trường Trần Quốc Tuấn, tôi cương quyết đấu tranh. Phái đoàn thương thuyết do giáo sư Bùi Đức Thu dẫn đầu đã thất bại sau một trận thảo luận. Chú bé Trần Quốc Tuấn đã bị khổng lồ Ty Tiểu học, với sự yểm trợ của chính quyền, đè bẹp và sẵn sàng đầu hàng. Tôi lặng lẽ vận động sự giúp đỡ của cấp trên ở Huế; sau hai ngày chờ đợi, một buổi trưa nọ, điện tín của Nha Học Chánh Huế đến, và cho phép Trường Trung học Trần Quốc Tuấn tổ chức lễ khai giảng riêng. Không cần phải nói Trường Trần Quốc Tuấn vui đến độ nào và bắt tay vào việc tổ chức buổi lễ khai giảng đầu tiên của trường thật chu đáo, thật trang nghiêm. Lần đầu tiên, nam học sinh mặc đồng phục sơ mi trắng, quần xanh và nữ sinh khoác chiếc áo dài trắng duyên dáng. Hậu quả của sự thành công ban đầu là sự lạnh nhạt của chính quyền. Để chào mừng sự thành công của chính quyền, sau một năm chấp chính của ông Tỉnh trưởng cũng như các Ty Sở khác, Trường Trần Quốc Tuấn phải lo riêng một phòng triển lãm.
Trường lặng lẽ sắp xếp những gì sẽ triển lãm và chỉ mở cửa đến giờ phút chót. Ông Tỉnh trưởng cứ tưởng rằng trường không tham gia và dọa sẽ cách chức “tên hiệu trưởng trẻ” này. Ông rất ngạc nhiên là trái với lời dèm pha của những kẻ xấu bụng, Trường Trần Quốc Tuấn đã có mặt với một phòng triển lãm rực rỡ màu sắc và đầy ý nghĩa.
Độ một năm sau, ông Tỉnh trưởng được lệnh rời nhiệm sở, tôi đã cho học sinh Trần Quốc Tuấn sắp hàng trước trường để tiễn đưa khi ông Tỉnh trưởng đi ngang trường trực chỉ phía Nam. Tôi đã lái xe riêng của tôi đưa chân ông đến tận đèo Bình Đê, địa đầu phía Nam của Quảng Ngãi.
Rõ ràng là vui buồn dồn dập nhưng đó là cơ hội chứng tỏ khả năng tiềm tàng của chú bé Trần Quốc Tuấn. Trường Trần Quốc Tuấn đã bắt đầu có được sự kính nể của các Ty Sở khác và được sự tin cậy của phụ huynh học sinh.
Sau khi tạm yên với chính quyền, tôi yên tâm quay lại với đàn em nhỏ, nhưng một số đã là “em lớn”. Sau này tôi mới biết có một số em lúc đó đã lập gia đình.
Tôi đặt nề nếp từ lúc ban đầu, nên mọi chuyện đã tiến triển trong khuôn khổ kỷ luật, lễ giáo. Các em đã xa đèn sách khá lâu nay trở lại, các học sinh rất “thèm” học, “mê” sách vở nên không khí học tập thật nhẹ nhàng, êm ả, hăng say. Một vài năm sau, nhà trường lớn mạnh, đông đúc hơn, sinh hoạt đã gặp đôi chút khó khăn. Nhưng với phương pháp giáo dục, đặc biệt là việc “tìm hiểu trẻ” đã giúp cho trường hiểu được học sinh, đến với các em, để giúp đỡ các em tiến bộ trong học hành và tu luyện đạo đức. Rất vui là nhà trường đã cảm hóa được nhiều học sinh không được đằm tính, không chăm chỉ, trở thành những phần tử tốt. Chuyển hướng được học sinh, nếu có thể nói là hư hỏng, thành học sinh ngoan giỏi bằng những biện pháp nhẹ nhàng, đó là một thành công của nhà trường, và là một niềm vui lớn cho thầy giáo và cha mẹ con em.
Học sinh Trần Quốc Tuấn đã thành đạt rất nhiều và tôi rất mừng và hãnh diện với những ngôi sao Trần Quốc Tuấn như các em H.N.P, T.C.H, P.C.N, L.Q.A, N.N,….., nhiều nữa, đang lấp lánh trên bầu trời văn học ở nhiều nơi.
Không vui sao được, không hãnh diện sao được khi mình có thể nói rằng những “ngôi sao ấy” thuộc vào “chòm sao” của chúng ta.
Phải thành thật mà nhận rằng điều khiển 2.000 học sinh không khó, mà cư xử với 100 giáo sư không phải là dễ. “Biểu diễn đi dây” ở đây đòi hỏi nhiều khéo léo tế nhị. Thật tình tôi đã buồn nhiều vì không được trọn vẹn tình bằng hữu. Những năm gần cuối là những năm “Sợi dây” chao đảo nhất. Đi trễ, bỏ lớp, đổi giờ thường xảy ra,là những điều mà không có một hiệu trưởng nào có thể làm ngơ được, buộc lòng tôi phải nhắc nhở. Thế là mất vui, mất hòa khí. Có vị giáo sư xin vào văn phòng gặp tôi, sau khi mượn một cà vạt mang vào, mặc dù đã mặc sơ mi dài tay. (xin mở một dấu ngoặc, theo quy định của trường là Giáo sư đi dạy phải mang cà vạt khi mặc áo sơ mi ngắn tay, và khỏi mang khi mặc áo dài tay. Điều này là cốt tăng vẻ trang nghiêm cho Giáo sư phần lớn đang còn trẻ tuổi).
Vị Giáo sư này sau khi đề cập đến cách ăn mặc của Giáo sư mà ông cho là khắc khe, đã nói bằng Tiếng Pháp (ông này là giáo sư dạy tiếng Pháp) “L’ habit ne fait pas le moire!” Buộc lòng tôi phải đáp trả ngay bằng tiếng Pháp: “Pardon! Mail le moire doil avoir un habit, il ne peut pas prêcher en maillot ou en calescon”. Vị giáo sư ngỡ ngàng trước câu trả lời của tôi, đứng dậy xin phép ra ngoài.
Sợ để lâu, sự bất hợp tác dẫn đến hậu quả có hại cho việc học hành của con em, tôi đã đề nghị cho 3 vị chuyển trường và không vì kỷ luật. Dù sao sự việc như thế đã làm cho tôi buồn lòng hết sức.
Trường tiến dần đến những ngày tháng bất an, dư chấn của cuộc đảo chính liên tục và đến 1963 bộ máy chính quyền ở Sài Gòn sụp đổ. Hầu hết các trường ở miền Nam đều bị xáo trộn, Trường Trần Quốc Tuấn không phải là ngoại lệ…
Sau khi chứng kiến cảnh nhân tình thế thái, tình nghĩa nhạt nhòa, những gì mà mình xây dựng, mà mình cho là tốt đẹp nhất trong con em về phương diện trật tự, đạo đức, lễ nghĩa đã sứt mẻ sụp đổ, tôi đã ra đi.
Một buổi sáng không nắng, gió ơn ớn lạnh, không gian chìm trong một ánh sáng mờ đục, tôi đứng trước trường, không có một bóng học sinh. Những mái tôn xám như nghiêng nghiêng gục xuống, hàng cây long não lao xao như đang thì thầm. Tôi vẫy tay miệng lẩm bẩm :“ Trường ơi! Chào em lần cuối”. Cả gia đình lên xe, trực chỉ hướng Nam, để lại đằng sau một trời thương nhớ. Chiếc xe hơi nhỏ, được xem xét lại máy móc ngày hôm trước, đang nhẹ nhàng lăn bánh thì bỗng nhiên tắt máy đứng lại, cả nhà bước ra khỏi xe thì trước mắt là con đường đất đỏ dẫn vào sau núi Bút, nơi có mộ phần của con trai duy nhất của tôi, sinh ra được 12 tiếng đồng hồ thì mất. Cả nhà rùng mình, không ai bảo ai lâm râm khấn vái: “ Con ơi! Ba mẹ và các chị em xin lỗi con, vì quá bộn bề nên quên thăm con trước khi ra đi. Cho ba mẹ đi bình yên. Ba sẽ trở lại thăm con. Nước mắt ràn rụa, chúng tôi vái và lên xe sau khi gắn lại ống dẫn xăng (chỉ sút ống xăng thôi).
Buồn ơi là buồn! Ra đi, rời Quảng Ngãi với một gánh buồn khó nguôi. Buồn cho đất nước, buồn cho cảnh trường, buồn cho cảnh nhà, buồn cho tình người ….
Hai năm sau, tôi trở lại trường với tư cách là Chủ Tịch liên hội đồng thi Trung học DIC. Không biết người ta có muốn bắt tôi uống hết mùi cay đắng hay không mà giao cho tôi một công việc quá nhọc nhằn: một kỳ thi, hai trung tâm xa nhau mà thí sinh chỉ toàn những người quen biết. Lý, tình biết xử ra sao. Trường thi bị quấy rối khá nhiều, trong ngoài kết hợp tạo nên một cảnh hỗn độn đau buồn. Còn nhớ mấy năm về trước, các kỳ thi tổ chức ở Quảng Ngãi đã diễn ra yên tĩnh và trật tự đến nỗi có vị chánh chủ khảo sau khi niêm yết kết quả đã điện thoại cho tôi, lúc bấy giờ đang làm nhiệm vụ ở Quy Nhơn: “Anh Hy, tôi chưa bao giờ được tham gia một kỳ thi êm đẹp như ở Quảng Ngãi. Kỹ luật và trật tự chưa từng thấy. Chúng tôi thưởng cho thí sinh Quảng Ngãi điểm vớt tối đa: 13 ”
Tôi đã làm việc hết mình, khi tôi chuẩn bị lên xe đem bài thi về Huế, thì thầy N.X.T, một Giáo sư Pháp văn của trường Trần Quốc Tuấn, người đã tham gia đả đảo Hiệu trưởng H.N.H hai năm trước, tiến lại gặp tôi với thái độ kính cẩn làm tôi ngỡ ngàng và với giọng nói cứng rắn nhưng không giấu được cảm xúc. Ông nói: “Thưa ông, tôi xin lỗi ông về những gì đã xảy ra, tôi đã bị người ta lợi dụng, xin ông hiểu và bỏ qua cho”. Lúc ấy nếu không có ai tôi đã ôm chầm lấy ông. Tôi đã nói bằng Tiếng Pháp cho đỡ cảm động: “Le passe’ passe!” (quá khứ đã trôi qua), và tiếp theo đó hai anh em bắt tay nhau thật chặt, tôi nói bằng tiếng Việt, lòng đầy cảm xúc: “Mãi cho đến giờ phút này tôi vẫn thương mến ông mà không mảy may oán trách!”. Giờ đây tôi xin dâng lên ông bạn đồng nghiệp đáng quý đã quá cố, lời cầu nguyện: “An bình nơi cảnh phật”.
Đó đã là một cuộc gặp gỡ bất ngờ đáng quý, một cử chỉ thanh cao đáng trân trọng của một nhà giáo chân chính. Thầy N.X.T đã đem lại cho tôi một niềm an ủi quý hóa và một niềm vui vô tận.
Cứ tưởng rằng tôi không còn có dịp trở về Quảng Ngãi nữa……Thế rồi đến năm 1995 và năm 2005 (kỷ niệm 40 năm và 50 năm thành lập trường), tôi đã được ban giám hiệu của trường mời về dự lễ.
Tôi có dịp gặp lại một số lớn cựu học sinh Trần Quốc Tuấn của tôi, nay tóc đã hai màu. Các em chờ gặp tôi tại sân ga lúc tờ mờ sáng, ngủ quên cho đến khi tàu đã vào ga.
Mừng mừng tủi tủi, thầy trò ôm nhau không nói nên lời. Những gì các em không nói lên được khi tôi ra đi (1963), cứ muốn nói lên hết. Như vậy không vui sao được, không mừng sao được. Những giờ phút sống gần các em ở Quảng ngãi những năm ấy sao mà ngắn quá! Bên cạnh cuộc gặp gỡ đầy tình nghĩa thắm thiết với các em cựu học sinh, tôi còn được ban giám hiệu và toàn thể giáo sư nhà trường dành cho một cuộc đón tiếp ân cần nồng hậu như đối với người bạn cũ. Thật đúng là cung cách nhà giáo. Nghe nói lại là trong chính quyền địa phương đã có tiếng bình phẩm, là trường TQT tổ chức lễ để đón tiếp ông Hy, hơn là làm lễ kỷ niệm…
Thế cũng vui lắm rồi, bù đắp lại những gì mà tôi không có được lúc ra đi. Tôi chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp mới ở trường Trần Quốc Tuấn và gửi đến các em cựu học sinh ở Quảng Ngãi lòng nhớ thương vô hạn.
Những gì tôi trình bày trên đây có thể xem là một bức tranh toàn cảnh của cuộc sống và việc làm của tôi trong gần 8 năm ở trường Trần Quốc Tuấn. Có lẽ tôi không còn có dịp về thêm.
Tôi cảm ơn em Lê Quốc Ân và các em trong nhóm bạn cũ Trần Quốc Tuấn 60-70 dễ thương của tôi, đã trao cho tôi cơ hội làm “người viết sử”kể lại cho đời sau một giai đoạn sinh hoạt tưng bừng của thế hệ đàn anh.
Tôi cũng muốn gửi lời thăm hỏi thân thương đến tất cả các em cựu học sinh trong và ngoài nước trong suốt thời gian qua, từ ngày bắt được liên lạc với chúng tôi sau 1973, đã thường xuyên liên lạc thơ từ thăm hỏi, đã giúp đỡ thầy cô về vật chất lẫn tinh thần, làm cho cuộc sống thầy cô trở nên nhẹ nhàng. Không biết mình có còn dịp thăm nhau nữa không? Thời gian trước mắt không còn dài. “Sự đời sắc sắc không không, thôi thì mình hãy hết lòng thương nhau”(Vanitas, anitalum, etomnia vanitas)
Thương nhớ mãi.
Thầy Hà Như Hy