BẠN TÔI



NGÔ XUÂN VŨ

            Cách đây hơn nửa thế kỷ, tôi vào học lớp đệ thất 3, trung học Trần Quốc Tuấn – Quảng Ngãi, chung lớp với anh. Ngày ấy trông anh có vẻ già dặn, lớn tuổi hơn bọn tôi. Lúc đó học sinh từ nông thôn đều học trễ, tôi trễ hai năm. vì tới tuổi đi học lại không có trường, còn anh lại trễ nhiều hơn nữa. Anh chơi thân với anh T, bề ngoài hai vị trưởng thượng của lớp nhóc này có vẻ đàng hoàng, nhưng hoang ngầm, chỗ ngồi cuối lớp của anh là nơi xuất phát những chuyện tiếu lâm, là nơi chuyên nả pháo ngầm gây ô nhiễm môi trường.Anh học giỏi, đôi mắt tinh anh nhưng dáng đi khật khừ.
            Hơn hai năm sau, do gia biến, tôi bỏ trường mà đi và cũng từ giã cái tên cúng cơm do cha mẹ đặt từ đây, lưu lạc giang hồ ra Huế, vào Đà Nẵng, rồi về quê nằm bó gối tự học trên cái “rầm” nhà mình để tránh lính, rồi thi băng, thi nhảy. Nhưng số trời lồng lộng, học gian, thi copy làm sao đậu được. Đến khi đủ năm đủ tháng tôi mới đậu Tú tài 1, vào đệ nhất B1 Trần Quốc Tuấn lai gặp anh. Anh bây giờ đã cao lớn và vẫn giữ thói quen hài hước đen theo cái kiểu Cà Đó, quê anh. Cuối năm ấy chúng tôi đậu Tú tài 2, hình như anh đậu bình, tôi đậu bình thứ. Dù đậu hay rớt, những anh em nào có khai sinh (không phải là tuổi thật) từ 1948 về trước đều phải vào Thủ Đức, lên đường nhập ngũ tòng quân, còn lũ chúng tôi, khai sinh 1949, 1950 đều vào Sài Gòn để đi tìm công danh hoạn  lộ, mặc dù hầu hết anh em đều rất nghèo và không có ai quen biết ở cái thành phố phồn vinh, náo nhiệt kinh hồn này. Gia đình chắt mót hết cách cho một số tiền nhỏ và một cái địa chỉ mơ hồ của một người dân trong làng đã bỏ xứ đi làm ăn từ năm nào ở “di linh, trà lạch” gì đó. Tuổi trẻ chúng tôi quê mùa, nhưng lòng náo nức, nhiệt thành, chịu thương chịu khó nên từng bước mọi việc rồi cũng xong. Anh học ở đại học Khoa học một năm rồi đậu vào trường Y khoa Sài Gòn, một trường khó vào nhất thời đó. Tôi học Luật và may mắn đậu ngay vào Học viện Quốc gia Hành chính. Anh ở Đại học Xá Minh Mạng, hang ổ của đấu tranh chống chính quyền, cũng là nơi trú ngụ tuyệt vời, lý tưởng của sinh viên nghèo các tỉnh, nơi ở tươm tất, lên lầu xuống trệt của những thằng nhà quê chân đất. Tôi vào cư xá Hành Chánh, lần đầu tiên trong đời được nằm nệm êm, chăn gối đàng hoàng, chứ không phải gối khúc tre già như hồi ở nhà nữa. Hàng tuần tôi đến Đại học xá Minh Mạng vì bạn đồng hương hầu hết ở đó, vui thực vui, nhưng cũng thường cháy túi sau mỗi lần lãnh học bổng, vì nơi đó cũng là ổ cờ bạc tầm cỡ của sinh viên. Một lần tôi thật sự kinh ngạc khi gặp anh khoác bộ đồng phục sinh viên sĩ quan Quân Y, trông  oai phong ra phết. Anh cũng như LVC thi vào sĩ quan Quân Y, Quân Dược hiện dịch, để kiếm một khoảng tiền lương kha khá (năm đầu lãnh lương chuẩn uý, năm 2 và 3 lương thiếu uý sau đó là lương trung uý), để khỏi phải đi dạy kèm hay đạp xích lô, kiếm tiền ăn học, chứ tôi biết chẳng phải lý tưởng quốc gia gì. Tôi ở QGHC cũng rủng rỉnh tiền bạc, từ năm thứ hai đã lãnh lương với chỉ số 380, nên bạn bè lại nhịp nhàng mỗi cuối tuần hát khúc quân hành: “Chiều tà tà, ta phóng xe, đi thẳng một hơi, lên trên Cổ Loa…”
            Học trình ở QGHC chỉ có 4 năm nên tôi ra trường đi làm trước bọn họ, công vụ, danh lợi đa đoan nên hầu như không còn gặp bọn họ từ sau 1972. Mãi đến cuối năm 1974, LVC ra trường Quân Y về Quân đoàn I, bọn tôi mới hạnh ngộ với nhau, đi nhậu lai rai, tranh luận ráo riết. Cái đầu lý thuyết nhạy bén và lãng mạn của LVC vẫn hừng hực lửa.
            Đến cuối tháng 3 năm 1975, LVC và tôi lại chạy trối chết từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Bỏ lại tất cả để tháo chạy ra cảng Tiên Sa, cùng với hàng trăm ngàn người, lính và thừơng dân, dẵm đạp lên nhau để xuống  được xà lan chạy vòng vòng quanh cảng chịu đói khát hai ngày đêm rồi  lên được  chiếc tàu của Mỹ  chở vào Cam Ranh, đi bộ đến Phan Rang, lên ghe máy vào Vũng Tàu. Đây là lần duy nhất trên đời tôi suýt giết người và cùng với hàng vạn người khác đổ lên dẫm đạp những kẻ bất hạnh, yếu đuối để tìm đường sống cho mình. Cuộc di tản khủng khiếp, bi thương, tàn bạo đến nay đã gần 40 năm qua mà tôi vẫn không thể nào quên.
            Nhờ luồn lách giỏi nên lúc đó tôi thuộc loại 1% (giống như 1% của phố Wall ngày nay), tiền bạc đầy túi nhưng phải thường xuyên di chuyển từ nơi này đến nơi khác, thường được đồng hành với các xe chở heo, các xe khách chỉ được đứng một chân, các tàu chợ nêm chặt người hôi hám, chứ không sang trọng như các đại gia đi máy bay riêng, đi xe Roll Roy, Mercedes ngày nay.
            Khoảng giữa những năm 80 tôi hay ghé nhà thăm anh, căn nhà cấp 3 nhỏ hẹp, trong khu lao động, phần phía trước là phòng mạch của anh. Lúc đó anh là bác sĩ Y khoa làm ở Bệnh viện Bình Dân, nhưng biên chế ở Trường Đại Học Y Dược với chức danh Chủ nhiệm bộ môn Gây mê hồi sức. Sau này anh là Phó Giáo sư Tiến sĩ, chủ tịch Hội Gây mê HS thành phố HCM, tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu trong ngành y. Nghe chức danh bắng cấp thì hết hồn nhưng tiền bạc thì không chịu đến. Phòng mach của anh thưa thớt khách. Anh đi làm suốt ngày trên chiếc xe Honda dame cũ kỹ, chiều về mới khám bệnh tại nhà. Nhà thì trống trước trống sau. Đôi lần tôi gặp Bà cụ, thân mẫu bạn tôi, dáng dấp và phong cách cụ điển hình cho những Bà mẹ ở quê hương tôi. Cụ có một ao ước là được về thăm quê  một lần, cái làng quê nghèo khó của anh. Anh là đứa con chí hiếu, nhưng với hoàn cảnh cơ cực lúc đó, không biết anh có thực hiện được một lần ước mơ của cụ hay không. Vài năm sau đó, khi tôi trở lại thì cụ đã mãn phần, phần cơm cúng hàng ngày của cụ cũng chỉ có rau dưa.
            Anh là một bác sĩ rất giỏi chuyên môn, hết lòng hết sức với bệnh nhân, nhưng chưa bao giờ là một business man trong nghề. Hơn nữa, chuyên khoa Gây mê hồi sức là một chuyên khoa chưa đưoc xã hội  trọng thị tại Việt Nam, cho mãi đến vài năm gần đây, mới có sự thay đổi phần nào. Ở các nước tân tiến thì khác, bác sĩ gây mê được trọng vọng không kém gì bác sĩ giải phẩu. Tính anh rất gàn, cái gì đúng là đúng, sai là sai, không bao giờ thoả hiệp, nói sai là đúng, nói đúng là sai để mưu cầu danh lợi. Đó cũng là nguồn cơn gây ra những rắc rối trong cuộc đời anh. Có bao nhiêu câu chuyện gần như ngụ ngôn về anh mà bạn bè nghe qua đều cười ra nước mắt
            Trong thời buổi suy tàn băng hoại về đạo đức của xã hội ngày nay, tất cả mọi ngành nghề đều có vấn đề nghiêm trọng, kể cả những nghề cần nhiều phẩm chất, lương tâm như giáo dục, y tế. Anh  có lẽ là một trong  rất ít ỏi nhưng người thầy thuốc vẫn giữ được lời thề Hypocrate, cả đời gần như không từ chối giúp đỡ bất cứ ai cần đến anh. Với bạn bè lại càng đặc biệt, anh tận tuỵ, hết lòng hết sức, luôn luôn đúng hẹn và không nghĩ gì tới sự bù đắp của người khác bao giờ
            Tuần trước tôi nhờ anh viết một số chỉ định đến bệnh viện Đại học Y Dược để làm những xét nghiệm, siêu âm kiểm tra sức khoẻ mà ở Mỹ tôi không dám làm vì quá tốn kém. Cô bác sĩ làm siêu âm cho tôi, khi biết tôi là bạn của anh đã nửa đùa nửa thật nói với cô phụ tá là phải  làm thật kỹ cho chú nầy, nếu không thì ông Thầy la đó. Rồi cô kể vài chuyện về Thầy mình với sự nể phục, thương mến, kèm theo nụ cười dí dỏm không che dấu. Tôi cũng vui lây với cô bác sĩ, và tự nhủ rằng, được làm bạn nửa thế kỷ với ông Thầy này “ chẳng phải thích sao”, theo kiểu nói của Kim thánh Thán.
            Cuối bài văn, cho phép tôi chép lại bài thơ  “Tự cảm” của anh viết cách đây mấy năm:
      Năm nay tớ đã sáu mươi dư?
      Rằng giáo rằng sư..,phó cũng ừ.
      Thiên bút phê vân người Vũng Quít
      Tà dương, Thạch Bích rạng Ba Tơ
      Công trình nghiên cứu hơn trăm lẽ
      Hồi sức gây mê chẳn. mấy mươi
      Mộ Đức địa linh cằn cỗi lắm
      Góp tay xây dựng tạ ơn đời.
                                                                                                Ngô Xuân Vũ
                                                                                                Tháng 11/2011