Có lẽ chúng tôi có những thuận lợi khi được học chung với nhau từ thời trung học, cách nay đã trên 50 năm. Xuyên suốt thời gian ấy, có biết bao nhiêu kỹ niệm buồn vui, những cái được và mất, những việc đã làm và không làm được, những ước vọng và giới hạn của đời thường, nhiều điều vẫn còn lắng đọng trong ký ức của lứa bạn chúng tôi. Ngày nay, có bạn đã đi về một nơi lạ lẫm nào đó, có bạn có những thành công riêng, có bạn vẫn còn bên đời lận đận, loay hoay với cuộc sống, nhưng dù trong hoàn cảnh nào, lứa bạn chúng tôi vẫn sôi nỗi hào hứng khi có dịp gặp gỡ hay khi nói về nhau.
Đầu niên khóa 1961, trường chúng tôi là trường công lập lớn của tỉnh, có bảy lớp Đệ Thất, chừng khoảng hơn 350 bạn chia thành hai khối lớp, theo môn sinh ngữ chính là Anh văn và Pháp văn. Khối Pháp văn có bốn lớp từ Đệ Thất 4 đến Đệ Thất 7; Khối Anh văn từ Đệ Thất 1 đến Đệ Thất 3.Mỗi lớp có chừng 50 bạn trong đó có khoảng 10 bạn nữ sinh được bố trí ngồi ờ 2 hoặc 3 bàn đầu. Lớp tôi là lớp ĐệThất 5, với sĩ số học sinh hơn 50 bạn, trong đó có nhiều bạn 14, 15 tuổi, trưởng thành hơn so với tuổi vào lớp học đầu cấp. Thời ấy, học sinh không có nhiều phương tiện vui chơi giải trí như bây giờ, trong giờ ra chơi, bạn bè chủ yếu ra sân trường,đúng dưới trong bóng mát dưới những tán cây long não, hoặc chạy nhãy nô đùa hồn nhiên, hoặc chơi banh tay, hoặc thuê truyện về đọc, hoặc tụ tập đi uống nước giải khat, hay ăn chè. ..Ở đời, có học sinh nam và nữ hoc chung, gần gũi trong lớp hàng ngày, ắt sinh ra những chuyện tình cảm, từ tình cảm bạn bè vô tư, mượn vở chép bài, mượn sách truyện đọc, đùa giỡn, chọc ghẹo nhau, đến những tình cảm vấn vương mơ mộng của tình yêu tuổi niên thiếu. Có một sự thật mà cho đến nay, bạn bè chúng tôi ai cũng đồng ý là các bạn nữ sinh cùng lứa chúng tôi đều dễ thương, duyên dáng, và ít nhiều ai đó trong chúng tôi cũng có những phút nao lòng, vấn vương trước nét đẹp của chữ viết, của tính cách, hoặc vẻ duyên dáng của những tà áo dài hay chiếc đầm trắng. Lớp trưởng chúng tôi lúc ấy là anh chàng Ấm, to con và hay đùa giỡn nhất, nhưng tính tình rất tốt, là đại diện lớp luôn bị nhận “khuyết điểm” trước thầy cô về các trò chơi nghịch ngợm của các bạn trong lớp. Năm ấy, cô Kim Thư, vợ thầy hiệu trưởng Hà Như Hy, dạy Pháp văn, làm giáo viên cố vấn lớp (gần giống với chủ nhiệm lớp ngày nay), cô Thư rất gần gũi với học trò, luôn giúp đỡ những học sinh nghèo, và học sinh chưa nắm vững kiến thức môn học; thầy Thư dạy Hội họa; cô Hoa dạy Sử ký, thầy Kỉnh dạy Hán văn và nhiều thầy cô khác. Biểu trưng cho sự nghịch ngợm của nhóm lớp chúng tôi ngày ấy, mà nhiều bạn đến hôm nay vẫn còn nhớ, là một câu nói mô tả các thầy cô dạy các môn học của nhóm lớp: “Cô Hoa Sử Thầy Thư Vẽ Hán Thầy Kỉnh”; Hoặc như anh chàng Ấm lớp trưởng khi được cô Thư bảo đọc bài tiếng Pháp trong sách Mauger I, đoạn mô tả về anh chàng Pierre Vincent, đoc tới đoạn “..Pierre a long cou” thi bạn ấy đọc ngập ngừng làm cả lớp cười ồ, sau nầy các bạn có hỏi tại sao đọc ngập ngừng đoan ấy thì bạn Ấm thật tình nói: “Tụi Tây mà nó mô tả giống người Việt mình quá”.
Lớp chúng tôi các bạn nữ hầu như ai cũng có chữ viết đẹp, và cũng có những bạn nam chữ viết rất tốt,như bạn Ân, bạn Liên, bạn Lang. Bạn Liên ngày ấy được cô Thư cố vấn lớp chọn làm Thư ký lớp vì hoc giỏi mà chữ viết đẹp nhất. Nhỏ con trong lớp, học rất giỏi, tính tình hiền lành ít nói, thường đứng đầu lớp về nhiều môn, là bạn Khôi Anh. Ngày ấy các thầy cô, vào đầu các buổi học, thường gọi một số bạn để hỏi bài, và gọi một cách ngẫu nhiên, nên nếu bạn nào không học bài trước ở nhà thì lúc nào cũng hồi họp lo lắng, sợ gọi đến tên mình, vì nếu được gọi hỏi bài, mà trả lời không được thì cảm thấy hơi bị “xấu hổ”. Cũng vì trong lớp có các bạn lớn tuổi, nên bạn bè thường cặp đôi bạn trai lớn tuổi nầy với bạn gái dễ thương nọ, như hai bạn có giọng ca tốt thường song ca với nhau trong giờ sinh hoạt văn nghệ là bạn Ngọ và bạn Kim Phương, hoặc có sự kiện một bạn gái được nhiều bạn quan tâm như Mỹ Linh, dẫn đến một huyền thoại tình yêu kiểu học trò từ những chàng trai trong lớp. Ngày nay, bạn bè lứa tôi khi nhắc đến Mỹ Linh, một tên riêng, nhưng có lẽ còn là một từ gì chung chung, để nhắc đến cái tình yêu thơ ngây, ngộ nghĩnh của lứa bạn chúng tôi ngày ấy.
Qua năm Đệ Lục, Trường Nữ sinh của tỉnh được thành lập, các bạn nữ được tách ra học riêng, lúc nầy lớp càng có nhiều chuyện tinh nghịch hơn, một phần vì các bạn đã lớn hơn một tí, một phần vì lớp không còn các bạn gái. Một số bạn nữ sinh cùng thời cũng đã sang ngang ngay từ lớp Đệ Lục như bạn Nga Phước, để lại không biết bao nhiêu vấn vương cho một số anh chàng, mà mãi nhiều năm sau mới kể.Trường Nữ Trung học hồi ấy là nơi hội tụ của nhiều nữ sinh duyên dáng của tỉnh. Để nói về nét đẹp thướt tha của nữ sinh Trường Nữ, với tà áo dài trắng bay trong gió, vào một chiều khai giảng đầu năm học, ông tỉnh trưởng đã mở đầu bài diễn văn khai trường bằng cách nhắc lại câu thơ: “Chiều nay bướm trắng bay nhiều quá, Không biết rồi mưa hay nắng đây.”
Láng giềng tôi có ba bạn học chung một lứa, bạn Vân nhỏ con nhưng rất lanh lợi, là người ngay từ năm Đệ Thất đã biết chơi cờ tướng và hướng dẫn tôi cùng chơi, nhà bạn ấy có một cây mận lớn, cành lá xum xuê và ra trái vào hầu hết thời điểm, trong năm, nhiều chùm trái cây mận chín đỏ vươn qua hàng rào nhà tôi là môt món quà hấp dẫn lúc ấy. Bạn Kim Anh, học Đệ Thất 4, nhà cạnh nhà tôi, thường cho mượn tài liệu học tập. Bạn Tế lúc ấy cũng nổi tiếng là hoc giỏi, bạn Thạch quê ở Cổ Lũy, thường hay rũ tôi về quê vào dịp hè. Ngày ấy xóm tôi chưa có điện thắp sáng nên chỉ học bằng đèn dầu,do vậy vào mỗi buổi sáng sớm, thức dậy khoảng 5 giờ, bạn bè lối xóm thường rũ nhau ra đường Quang Trung để học bài và đùa giỡn dưới ánh đèn đường Néon.
Trong các năm còn lại của Đệ Nhất cấp, việc học tập của lớp tôi có nhiều lúc rất sôi nổi và sinh động, nhất là vào các giờ học môn Văn, phần các thầy các cô giảng về ca dao tục ngữ, hoặc về truyện Tự Lực văn đoàn, hay truyện Kiều. Thời gian rồi cũng qua, chúng tôi kết thúc bốn năm Đệ Nhất cấp bằng các buổi thi Tốt nghiệp.Sau cuộc thi nầy, một số bạn chúng tôi đã rẽ sang một hướng khác như đi học ngoài tỉnh hoặc đi lính, hoặc đi làm việc, một số bạn bắt đầu ba năm Trung học Đệ Nhị cấp từ lớp Đệ Tam. Trường lúc nầy chia thành các ban A, B,C, theo cách nói vắn tắt ban A là ban Sinh vật, ban B là Toán, và ban C là Văn chương, ban B có đông học sinh nhất với ba lớp. Do trường Nữ Trung học không đủ số lượng nữ sinh Đệ Nhị cấp, nên nữ sinh lại được ghép học chung tại trường chúng tôi.
Năm Đệ Tam được xem là năm tương đối rãnh rỗi của bọn tôi vì kiến thức và bài vở không nặng lắm nên chúng tôi có nhiều thời gian để đọc truyện, từ các truyện dã sữ kiếm hiệp đến các truyện văn học Trung quốc như Đông châu liệt quốc, Thủy hử, Tam quốc chí v..v, những truyện tình cảm xã hội như các truyện của Khái Hưng, Nhất Linh trong Tự Lục Văn đoàn, được nhiều bạn bè mượn truyền nhau đọc, các truyện của Khái Hưng được ai đó ghép thành câu có vần cho dễ nhớ: “Anh phải sống”, để nghe “Tiếng suối reo” để nhìn “Gánh hàng hoa” bên “Dọc đường gió bụi”nhưng than ôi, Khái Hưng mới “Nửa chừng xuân” thì đã hai phen “Trống mái”. “Gia đình anh”, vợ con anh vẫn “Hồn bướm mơ tiên” v…v. “Tâm hồn cao thượng” cũng là một trong những sách dịch hay, bao gồm những câu truyện ngắn đơn giản súc tích, có tác dụng giáo dục, ít nhiều đã ảnh hưởng đến ứng xử sau nầy của chúng tôi. Các truyện kiếm hiệp của Kim Dung rất hấp dẫn, không chờ đến khi bản dịch được in thành sách, vào mỗi trưa, chúng tôi thường đón đọc từng đoạn trong các nhật báo Sài Gòn, được dịch từ nguyên bản của tác giả đăng trên nhật báo của Hồng Kông vào ngày hôm trước.
Thời ấy bạn Lộc (Chiến) có một chiếc xe gắn máy Goebel thuộc loại sang nhất thường chở tôi và các bạn đi chơi xa, nói là đi chơi xa nhưng cũng chỉ trong vòng cách thị xã hơn 10 cây số; trong một dịp bạn ấy chở tôi đi Nghĩa Hành vào môt quán ăn trưa , bỗng nhiên có môt chú cũng lớn tuổi nhìn nhầm bà con của bạn Lộc, bạn Lộc tuy biết ông ấy nhầm nhưng với bản lĩnh của mình, vẫn nói chuyện tự nhiên như là bà con thật, bọn tôi được đãi ăn môt bữa rất ư là “thịnh soạn” cho đến khi ra về thì có vẽ chú ấy mới ngờ ngợ nhận ra có sự nhầm lẫn. Chúng tôi cũng bắt đầu biết uống cà phê, thường là ỏ quán Da Vàng hay cà phê Rose, hay 116 Võ Tánh, v...v... để nghe nhạc Trịnh Công Sơn. Chơi bi da và banh bàn quanh trường vào giờ ra chơi có bạn Ân và bạn Đĩnh, là hai trong số những tay chơi bi da và banh bàn khá hay trong nhóm, và vì ghiền, nên có lúc cũng “cúp cua” để chơi, với sự tham gia chứng kiến và ủng hộ của nhiều bạn cùng lớp.
Cùng học chung lứa có bạn Mạnh bạn Oai bạn Cường, ban Lộc (Lương quang), bạn Kỳ,v.v. Trong môt dịp nhóm bạn chúng tôi tổ chức gặp gỡ cuối tuần tại nhà trọ của bạn Lộc, các bạn cùng mua bia về uống với gỏi mít luộc, lần đầu tiên nhóm tôi mỗi người uống được 5 chai “bia con cọp”, là “thành tích” đáng nhớ trong đời vì bọn tôi cũng mới chỉ 15, 16 tuổi, vả lại lúc ấy tiền mua bia cũng khá cao, so với khả năng của bọn tôi. Sau năm lóp Đệ Nhị, chúng tôi thi Tú Tài I, một số bạn không được hoãn dịch, đã đi vào quân trường, sau nầy có một số bạn đã ra đi như bạn Lộc (Lương quang), bạn Lâm…
Năm 1968 đã ghi nhiều dấu ấn trong cuộc đời chúng tôi, năm ấy lần đầu tiên chiến tranh đã đi vào tỉnh lỵ với nhiều loạt pháo kích và hỏa châu vào ban đêm, đó cũng là thời điểm một số bạn ở cách xa thị xã, đêm đêm thường đến nhà tôi chơi, nên chúng tôi có thời gian chuyện trò, cũng như cùng nhau giải những bài toán khó, hoặc ôn bài cho kỳ thi Tú Tài 2.Kỳ thi năm đó, do có một số sự kiện đặc biệt, nên còn được gọi là kỳ thi Tú tài Mậu Thân. Sau kỳ thi, một số bạn trúng tuyển, đã rời quê vào Sài Gòn tiếp tục việc học.
Xa nhà đi học thời ấy, là một việc không dễ dàng với nhiều bạn, từ việc tìm chỗ ở, chỗ đi dạy kèm, đến việc chi tiêu sách vở và các nhu cầu khác. Bạn nào có điều kiện gia đình khá giả một chút, hoặc tìm được chỗ dạy kèm tốt thì có thu nhập, có điều kiện để cuối tuần gặp nhau vui vẻ. Một trong những thú vui ở Sài Gon lúc ấy của bọn tôi là đi xem phim tại các rạp chiếu bóng ở Quận 1 và Quận 5, nhất là các phim võ hiệp Hồng Kông, phim trinh thám của Pháp, và các phim tình cảm nổi tiếng của nước ngoài. Một dịp, khi mới vào Sai Gòn, bạn Chiến, bạn Ân, và tôi cùng đi uống cà phê, nhầm vào một quán cà phê đèn mờ, có các cô phục vụ ngồi bên cạnh ôm chúng tôi, bạn Lộc tuy mạnh miệng nhất trong nhóm nhưng vẫn không dám nói gì vì rất mắc cở, sượng trân, liều chịu trận. Oai, là một trong những bạn học giỏi, nên được một gia đình có con cần học kèm, cho ở riêng một phòng trên gác, trong Xóm Chuồng Bò, một xóm lao động gần Ngã Bảy; hàng tuần Mạnh , Cường, Tú,… và tôi thường tụ tập tại chỗ ở của Oai để chuyện trò và lai rai. Xóm Oai có những tay anh chị, nhưng nể nang và chơi với chúng tôi cũng vì chúng tôi cùng hòa minh sinh hoạt với họ khi rỗi rãnh. Một buôi sáng, khi uống cà phê gần chỗ Oai ở, các tay anh chi ấy thấy bọn tôi là “người mới” trong xóm, đã rót cho mỗi đứa tôi một ly lớn rượu “Ông già chống gậy” và đề nghị bọn tôi uống hết, bọn tôi liều uống hết một hơi, và thế là mấy tay ấy thấy tụi tôi có vẻ chơi được, nên rũ bọn tôi cùng gia nhập hội lai rai quán cốc cuối tuần.
Ngày ấy, một số bạn ở trong Đại học xá, Cư xá, hoặc Ký túc xá, tham gia phong trào sinh viên học sinh Sài Gòn, tham dự các buổi sinh hoạt văn nghệ lửa trại, hay bãi khóa, xuống đường,cũng có bạn rất chí thú học hành...Có bạn không còn được hoãn dịch học vấn, đi vào quân ngũ; cũng có bạn âm thầm tham gia cách mạng.Sau nầy, khi gặp lại nhau, bọn tôi thường nói vui là, có bạn trong đánh ra, có bạn ngoài đánh vô. Dù hoạt động ở các môi trường khác nhau, và ai trong chúng tôi cũng đều có thêm rất nhiều bạn khác, nhưng nhóm bạn cũ chúng tôi cũng vẫn rất gắn bó, và có nhiều dịp gặp nhau.
Nhóm bạn đồng hương mỗi năm đều có họp mặt ở Sài Gòn, anh Hòa là một trong số những đàn anh hoạt đồng trong cộng đồng hết sức tích cực được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng ban tổ chức; họp mặt cuối năm là dịp mà nhiều bạn chúng tôi có điều kiện gặp gỡ lại sau mười hai tháng bận rộn học hành và sinh hoat đời thường, cũng là dịp để bạn bè gặp gỡ giao lưu, cùng hát lại dân ca quê nhà, điệu hò ba lí tình tang, và tham gia đóng góp cho các chương trình từ thiện. Ra trường đi làm, nhiều bạn vẫn giữ được những truyền thống tốt đẹp, như bạn Mỹ Anh, khi dạy ở trường Nữ từ những năm 1973, đã có những giúp đỡ thiết thực cho học trò nghèo; nhiều bạn khác nữa, cũng có những hoạt động nhân ái, dù ở bất cứ cương vị và hoàn cảnh nào, việc đó có lẽ cũng từ những gì chúng tôi đã được truyền thụ từ khi còn đi học.
Sau năm 1975, lứa bạn tôi theo nhiều ngành nghề khác nhau, có bạn là công chức, viên chức, có bạn làm ăn buôn bán nhỏ, hoặc có bạn vui thú với ruộng vườn, có bạn đã ra nước ngoài sinh sống. Nhóm bạn cùng lứa chúng tôi vài tháng một lần cũng tổ chức gặp mặt ăn uống trò chuyện thăm hỏi công việc của nhau, việc nầy diễn ra trong thời gian dài từ khi còn đi học, và cho đến những năm gần đây thì quy mô gặp gỡ được mở rộng theo nhóm lớn hơn, có tổ chức quy củ và có những hoạt động thiết thực hơn như thăm viếng bạn bè, thầy cô; xuất bản kỹ yếu... Dù có lúc có những khác biệt nầy nọ, nhưng các bạn khi có cơ hội, vẫn thường vô tư gặp gỡ hàn huyên giao lưu vui vẻ bên ly cà phê hoặc ly bia, chén rượu; hoặc dù có bộn bề với cuộc sống, nhưng khi gặp nhau, vẫn sôi nổi chân tình như tuổi thiếu thời, quên bẳng những lo toan đời thường, đây có lẽ là nét đẹp đáng mến của tình bạn lứa tôi. Công việc duy trì các buổi gặp mặt hàng năm ở Sài Gòn, có sự đóng góp rất lớn của các bạn Chiến, Ân, Chính, Kịch, Đóa, Rung,Công, Thanh, Chừng, Ảnh, Vĩnh, Mỹ Anh, Kim Anh, v.v, đây là những bạn đã dành nhiều thời gian và công sức và có nhiều sáng kiến. Ở ngoài quê, các bạn Oai, Mạnh và nhiều bạn khác nữa cũng rất nhiệt tình thu xếp các buổi gặp gỡ với các bạn ở xa có dịp về thăm quê.
Đến nay đã đến trên 50 năm học tập và sinh hoạt cùng nhau, lứa bạn chúng tôi đã bắt đầu ở tuổi “gió heo may đã về”, những lần gặp gỡ các bạn phương xa đều khơi nhớ lại những kỹ niệm tôt đẹp thời hoc trò trung học. Hai năm trước, một nhóm bạn tôi có dịp gặp lại Mỹ Linh, hiện tượng của lớp Đệ Thất 5, sau mấy chục năm không gặp. Mỹ Linh giờ đã định cư ở nước ngoài, dù thời gian và tuổi tác đã làm thay đổi nhiều thứ, nhưng khi gặp lại bạn ấy, các bạn vẫn thích nói đùa về những gì chưa có dịp nói. Ân, Chiến, Mỹ Linh, Mỹ Anh, Khôi Anh, Kịch, tôi và một số bạn khác cùng đi thăm lại cô Hy, cô giáo cố vấn lớp năm xưa, gặp cô ai cũng bùi ngùi xúc động ôn lai kỹ niệm một thời, đó là lần gặp cuối cùng của chúng tôi với cô trước khi cô ra đi. Năm ngoái bạn Liên, thư ký lớp Đệ Thất 5, từ Mỹ về, có gặp thăm chúng tôi, cũng là cuộc gặp sau hơn 30 năm, bạn Kịch, bạn Xu, và các bạn khác đã cùng tổ chức các buổi gặp gỡ thân mật, ai cũng hỏi thăm về con về cháu, thay vì hỏi thăm về cha mẹ ông bà như lúc trước.
Gần đây, vài bạn chúng tôi được mời tham dự kỹ niệm ngày nhà giáo tại Sài Gòn và họp mặt cuối năm, của nhóm các bạn cựu nữ sinh trung học năm nào, buổi gặp diễn ra trong không khí đầy tình nghĩa thầy trò và sự thân thương, vui vè, đầm ấm giữa các bạn cựu nữ sinh. Qua lần gặp gỡ ấy, các bạn nam đều đồng ý rằng các bạn nữ sinh khi xưa vẫn còn rất đẹp, không những ở tính cách tâm hồn, mà còn về dáng vẻ. Các bạn hát và múa rất hay, rất truyền cảm, như khi còn là nữ sinh. Rõ ràng đã qua thời gian rất dài, nhưng có nhiều điều có thể bất biến đối với mỗi người.
Đến nay, lứa bạn chúng tôi đã qua tuổi 60, có bạn gần 70, số lần họp mặt hàng năm của chúng tôi chỉ đếm khoảng trên dưới mười đầu ngón tay, hoặc có bạn khỏe hơn thì có thể bổ sung thêm các ngón chân. Những buổi gặp gỡ cuối năm, hoặc giao lưu cà phê mỗi tuần hay tháng, hay những buổi chuyện trò với bạn bè ở quê nhà khi có dịp về thăm, là những niềm vui nho nhỏ ấm áp của lứa bạn chúng tôi. Trong số ấy, có bạn mới ra đi vài năm gần đây như bạn Cường, bạn An, bạn Bình, bạn Cử, …, các bạn ấy khi ra đi ít nhiều cũng mang theo những kỹ niệm thân tình một thời của chúng ta, Một thời, mà nói theo bạn Oai, là bạn bè lứa tôi đã đối xử với nhau không có gì khác hơn là bằng một “tấm lòng”.