Sau 60 năm tôi đọc lại cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, biết bao nhiêu bài học đầu đời mà tưởng như mới năm nào. Rãt nhiều bài mà tôi cũng như mọi người đã học hay đã đọc sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư đều thuộc nằm lòng. Nào là bài Làng tôi (Xung quanh làng có lũy tre...). Chỗ quê hương đẹp hơn cả (Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỷ của nhà cha mẹ tôi...). Đi học để làm gì? ... Tôi đi học cốt nhất là biết luân lý, cho hiểu cách ăn ở để thành người con hiếu thảo và người dân lương thiện). Có học phải có hạnh (Học hành ai cũng muốn cầu cho giỏi, nhưng học giỏi mà lại giữ được phẩm hạnh mới thật là đáng quí...). Có chí thì nên (Ở đời chẳng có gì khó. Người ta lập chí phải nên kiên...). Riêng bài Chăn trâu thì tôi thích thú vô cùng mỗi khi lẩm nhẩm từng câu trong bài ấy. Cũng có lẽ tôi có nhiều kỷ niệm trong thời thơ ấu với những buổi chăn trâu.
Khi tôi còn nhỏ khoảng từ 8 đến 11 tuổi, những ngày nghỉ học tôi thường đi chăn trâu thay cho người chăn trâu của gia đình. Sở dĩ tôi thích chăn trâu có lẽ vì tôi muốn có những ngày vui tự do thoải mái nhìn trời cao đất rộng, không tù túng, kỷ luật nghiêm khắc như ở nhà trường. Thuở ấy học trò được nghỉ học hai ngày Thứ năm và Chúa nhật trong tuần. Tôi đi học nhưng cũng mong đến ngày nghỉ để được chăn trâu. Ai bảo chăn trâu là khổ? Tôi thì thấy chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay tôi cầm cành tre như roi ngựa.
Đến ngày đi học thì mong đến trường gặp bạn bè vui đùa. Ngày nghỉ học lại mong được đi chăn trâu để gặp những đứa nhỏ chăn trâu, chăn bò trong xóm. Chơi với bạn học thì có cái vui với bạn học nào là kể chuyện đời xưa, đố toán mẹo; với những đứa chăn trâu, chăn bò thì cũng có cái thú với chúng nó, mỗi người một vẻ mà. Trâu bò xóm tôi thường thả ăn ngoài động Lăng. Người ta gọi là động vì toàn là cây như rừng, thế đãt hơi cao, còn Lăng vì ở đây có một cái lăng thật lớn, không ai biết gốc gác thuộc gia đình, giòng họ nào, có lẽ cũng đã mấy trăm năm rồi. Nghe đâu sau năm 1975, đang đêm người ta khai quật cái lăng đó vì nghĩ rằng có của quí chôn dưới lăng theo người chết.
Mỗi buổi sáng tôi cho trâu ra khỏi chuồng, thường đã có một đứa nhỏ gánh đôi ki không đứng đợi tôi ở ngoài đường. Tôi cỡi trâu đi trước, đứa nhỏ theo sau. Thường trong đám chăn trâu bò có những đứa nhỏ gánh đôi ki theo để lấy phân trâu bò về nhà cho cha mẹ chúng ủ với lá cây hay rơm rạ để làm phân trồng trọt. Đứa nhỏ này như xí phần lấy phân của cặp trâu tôi, bù vào đó nó luôn luôn coi chừng trâu cho tôi suốt buổi, không cho trâu đi xa ăn lúa mạ, khoai đậu của người ta.
Trong lúc thả trâu bò ăn thì bọn chăn trâu bò cũng có nhiều trò chơi. Nào là đá banh, trái banh thường là trái bồng nướng trui hay dùng bẹ chuối khô quấn bện lại thành hình cầu, những hôm tôi đi chăn trâu thì tôi đem theo trái banh bằng cao su đặc. Cũng có những trò chơi như đánh đáo, đánh lú, đánh tổng, đánh ruộng, u tù, đánh giặc giả... Những trò chơi ngày nay hầu như không còn nữa, tôi không rõ những đứa trẻ nhà quê thay vào những trò chơi gì?
Đến mùa có trái cây rừng thì cũng có nhiều loại như trái trâm trắng, trâm chua, trái sằm, trái quít, trái quăn, trái ngũ sắc...Cũng có khi bẻ cây lá rừng nhóm lửa nướng khoai lang, khoai mì, cua đồng ăn thấy ngon lành, giờ nhắc lại tôi thấy cũng thèm thèm.
Đôi khi xem trâu bò báng lộn cũng thích thú, thường là trâu bò khác xóm gặp nhau, đứng nhìn hồi lâu như thăm dò thách thức rồi đọ sừng, ngóng cổ. Nếu con nào thấy yếu kém thì quay đi như chịu thua. Nếu hai con ngang sức nhau thì chúng xông vào húc, đẩy, vích bằng hai cái sừng. Khi con nào thấy thua thì bỏ chạy, con thắng đứng nhìn có vẻ dương dương tự đắc. Thường cặp trâu của tôi trận đấu nào cũng thắng cả xóm trên lẫn xóm dưới vì cặp trâu của tôi rất to lớn và khỏe mạnh.
Trước khi cho trâu bò về chuồng thì tất cả sắp hàng trực chỉ ra cầu Bầu tròn để tắm cho trâu bò. Khi thả trâu bò đi ăn thì có kẻ trước người sau, nhưng khi cho trâu bò đi tắm thì nhất loạt thành hàng như đoàn quân ra trận. Tôi cỡi trâu đi trước oai phong như vị tướng chỉ huy cuộc hành quân, ai bảo chăn trâu là khổ? đâu có khác gì Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa.
Tắm xong lần lượt kéo nhau về, cho trâu bò vào chuồng, một ngày vui sung sướng biết bao nhiêu.
. . .
Mục đồng lưng trâu cỡi
Trâu thong thả đường về
Tiếng sáo diều thoang thoảng
Gió hiu thổI bốn bề.
. . .
Thơ Phổ Đồng (Nguyệt san Phật Học)
Năm nay tôi đã vào tuổi thất thập cổ lai hy, ngồi nhớ lại những ngày chăn trâu hơn 60 năm về trước mà lòng dâng lên một niềm vui khôn tả.
Ngày trước tôi chăn trâu có một lần bị mất trâu vào tháng mười, đồng ruộng trước nhà tôi nước trắng băng như biển. Trâu nhà tôi thường thả ra đồng ăn những chồi lúa mọc lên từ những gốc rạ. Thường thì thỉnh thoảng tôi nhìn xem trâu đang ăn ở đâu, cứ đến chiều thì trâu tự động kéo về chuồng. Có lẽ hôm đó tôi ham chơi mà quên trâu, nên trâu đi ăn xa qua làng khác, có ai đó đã lừa trâu tôi đem dấu trong lùm cây. Đến chiều tối không thấy trâu về, tôi và cha tôi đi tìm, theo dấu chân trâu, mãi đến nửa đêm mới tìm thấy trâu cột ở giữa lùm cây thuộc làng Thạch Thang cách làng tôi Quít Lâm một làng là làng Văn Hà.
Sau này từ năm 1964 nhà tôi không còn trâu nữa vì làng tôi bị Việt Cộng chiếm. Gia đình tôi phải bỏ làng quê ra ở thị xã Quảng Ngãi. Thỉnh thoảng thấy những cặp trâu đâu đó, tôi đứng nhìn sững như luyến tiếc một thời đã qua. Nhưng tôi vẫn tiếp tục chăn trâu nhưng không chăn trâu như ngày xưa mà chăn trâu theo như lời Phật dạy.
Theo bài Phật dạy chăn trâu của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ:
Kinh Phật mà nói đến trâu là nói đến bản tính si ngốc, vô trí nơi mỗi loài chúng sinh. Hiệu của Phật là Điều Ngự Sư, nên Ngài là một người chăn, hay một người đánh xe khéo léo, đưa chúng sinh đến thành trì an lạc của giải thoát.
Sụ ngu ngốc của chúng sinh không chỉ có một. Nó si ngốc tùy theo loại, nên cũng có cấp bực, có mỗi cách điều phục riêng biệt. Từ các hàng phàm phu cho đến các hàng Thanh Văn, Bồ Tát và cả đến các Thiền sư ngoại hạng, mỗi hành động và mỗi nỗ lực cho hành động đều được ví với các cách chăn trâu.
TRÂU CỦA PHÀM PHU
Nghiệp được ví là trâu, vì tất cả nghiệp tạo tác đều được điều động bởi vô minh, cũng như con trâu được điều động kéo xe vì sự si ngốc của nó.
Mạng sống hay tuổi thọ của mỗi chúng sinh, được ví như con trâu, tuổi già là cây gậy, đồng cỏ là sự chết và người chăn là nghiệp lực. Đời sống của chúng sinh bị nghiệp lực xua đuổi đi tới sự chết bằng tuổi già, như con trâu bị người chăn đuổi ra đồng cỏ bằng cây gậy. Con trâu nhằm tới đồng cỏ, sự sống nhằm tới sự chết. Chúng sinh không tự chủ trong hành động, cũng như trâu không tự chủ trong sở thích của nó.
. . .
TRÂU CỦA BỒ-TÁT
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc luyện tâm. Cái tâm đó nguyên lai thuần hậu nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rong, buông lung theo sở thích không biết gì đến hiểm nguy rình rập cho nên phải tìm lại và chế ngự cho thuần tánh. Từ khi tìm trâu để chăn trâu cho đến khi việc chăn thành tựu, trải qua mười giai đoạn: Tìm trâu, Thấy trâu, Được trâu, Chăn trâu, Cưỡi trâu về nhà, Quên trâu còn người, Người trâu đều quên, Về nguồn, Vào chợ buông tay.
Cũng như mười bức tranh chăn trâu (Thập mục ngưu đồ) của Thiền tông trong bộ Thiền luận của D.T. Suzuki, Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch.
1/ Tìm trâu: Tâm là trâu
2/ Thấy dấu: là thấy được dấu vết của Tâm, tức là biết quay về với Phật, Pháp, Tăng: qui y Tam bảo. Biết từ bỏ Tham, Sân, Si để tu Tâm, dưỡng Tánh. Tuy vậy vẫn chưa thấy được Tâm một cách hẳn hoi.
3/ Thấy trâu: Thấy Tâm nhờ vậy mới điều hòa được Tâm. Có thấy được bản tánh Phật của mình, mới hy vọng và ráng tu hành; có vậy mới đạt được Chân, Thiện, Mỹ.
4/ Được trâu: là nắm được Tâm để thanh lọc, để trừng Tâm theo giới luật, để tham Thiền ngõ hầu tiến tới Định và Tuệ. Nhưng Tâm chưa đạt đến trạng thái Viên giác, Viên ngộ, Chân như.
5/ Chăn trâu: là bắt Tâm theo giới luật và phát Tâm Bồ đề.
6/ Cỡi trâu về nhà: là đã điều phục được Tâm theo giớI luật rồi. Và lúc này Tâm bắt đầu quay về Bản Lai Diện Mục. Chỉ mới biết hồi Tâm thôi.
7/ Quên trâu còn người: là thấy Tâm không thật. Lúc đó Tâm vọng động đã dứt! Chỉ còn Tâm tịch tĩnh. Do vậy Tâm lúc đó rỗng không! Đó là trạng thái quên trâu!!
8/ Người trâu đều quên: Sau khi đã quên trâu lúc này lại thấy người không thật, thì người quên luôn, Hiện tượng này được tượng trưng bằng vòng tròn Viên giác. Đó là Tâm vô Tâm.
9/ Trở về Cội nguồn: là phản quan tự kỷ, trở về với ông Phật nội tâm của chính mình, để thấy được chính mình, thấy được bản lai diện mục của mình.
10/ Thỏng tay vào chợ: Thiền sư đánh bạn với mọi người và tuyên bố: Tụi nó và thầy đều là Phật cả mà! Đó là Vô trụ Niết bàn, Đạo và Đời là một không hai!
Theo Thượng Sỹ Tuệ Trung đời Trần thì tranh vẽ Thập Mục Ngưu Đồ tuy nhiều nhưng có thể xếp thành hai loại: Loại theo khuynh hướng Đại thừa và loại theo khuynh hướng Thiền tông.
Loại theo khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình công phu tu tập của hành giả. Trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri và cuối cùng đến tự tại.
Còn theo khuynh hướng Thiền tông trình bày bước tiến tâm linh theo hình vẽ qua ba giai đoạn: Sai Tâm bắt Tâm - Tâm vô Tâm - Tâm bình thường.
(Con trâu đất, Một biểu tượng độc đáo của Tuệ Trung Thượng tọa Thích Đức Thắng)
Nay vào tuổi 70 tôi nghiệm lại thấy mình không những chỉ chăn trâu khi còn nhỏ mà cũng đã tiếp tục chăn trâu suốt 60 năm nay và mãi mãi. Nếu được chăn trâu mà quên trâu, quên mình thì còn gì vui sướng hơn. Ai bảo chăn trâu là khổ?
Một trẻ cưỡi trâu dưới áng trời
Tưởng hình Lão Tử hóa thân tôi.
(Thơ Vũ Quang)
Lê Quang Chưởng