THI MƯỚN


KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN


Nếu nói về những khó khăn kinh tế thời đi học, có lẽ các học sinh, sinh viên Quảng Ngãi có nhiều kỷ niệm nhất. Điều này tương đối dễ hiểu, vì Quảng Ngãi là một tỉnh thuần nông, có lẽ nghèo nhất miền Trung, cũng có nghĩa là nghèo nhất nước. Vào khoảng thời gian thập niên 60-70,  chiến  cuộc ở Quảng Ngãi đã diễn ra vô cùng khốc liệt. Chiến sự tràn lan, khiến cho hầu hết các gia đình của chúng tôi đều phải tản cư từ các làng quê lên tỉnh. Ruộng vườn phải bỏ hoang, nguồn thu nhập bị cắt, các sinh viên  xa nhà  như chúng tôi chỉ còn một khung cửa hẹp để mưu sinh và tiếp tục con đường học vấn ở đại học, đó là tìm việc làm thêm. Nhưng làm gì bây giờ?
Kiếm chỗ dạy kèm, có lẽ là phương thức được nhiều sinh viên lựa chọn nhất.  Song cũng chẳng phải dễ dàng gì trong việc đi kiếm miếng cơm nhà người, dĩ nhiên trừ một số bạn may mắn gặp được gia đình tử tế. Câu chuyện kể về cuộc đời đi dạy kèm của thầy Lý MInh Trai, nguyên hiệu trưởng Trường Trần Quốc Tuấn mà bạn Đặng Thế Thiêng đã tường thuật lại, trong kỷ yếu năm nay, rõ ràng đã lột tả sự cay đắng của người học sinh, sinh viên đi dạy kèm. Còn những nghề khác như bốc vác thuê, đạp xích lô, bán báo… thì quá  nhọc nhằn,mà thu nhập chẳng đáng là bao.
Trong cơn túng quẫn như thế, nếu có ai đề nghị bạn chỉ làm việc trong vỏn vẹn có 3 ngày, mà được trả một số tiền có thể giúp bạn khỏi phải bận tâm đi tìm chỗ dạy kèm suốt cả hàng năm, bạn sẽ nghĩ sao? Mà công việc thì chả có gì ghê gớm. Hoàn toàn không phải là tội ác hay trộm cướp, giết người gì. Đó là việc đi thi muớn.
Thi mướn là gì?
Trở lại bối cảnh xã hội của thời thập niên 60-70 ở miền nam. Đó là thời gian mà trình độ học thức của mỗi con người, được xác lập bởi bằng cấp, sẽ quyết định cương vị xã hội của người đó. Hai người bạn học cùng lớp đệ nhị, đi thi Tú tài bán phần, một người hỏng và một người đậu. Sau đó cả hai bị động viên vào quân đội.  Người có bằng Tú tài bán phần sẽ vào Thủ Đức, sau khi ra trường, trở thành sĩ quan với cấp bậc chuẩn uý. Người bạn kia vào Đồng Đế , ra trường là hạ sĩ quan với  cấp bậc trung sĩ. Theo quy chế quân đội, thì 10 năm sau, anh chuẩn uý có thể lên đến thiếu tá hoặc thậm chí trung tá. Còn người bạn trung sĩ, dù phấn đấu đến đâu cũng chỉ   có thể lên đến  thượng sĩ nhất hoặc là chuẩn úy. Chỉ hơn kém nhau một vài điểm trong kỳ thi Tú tài bán phần, nhưng số phận cuộc đời hai người bạn cách xa nhau một trời một vực.
         Bằng cấp vô cùng quan trọng trong việc tiến thân, khiến cho những người giàu có nghĩ cách mua bằng. Mua như thế nào? Mua bằng giả thì sẽ bị phát hiện ngay khi đối chiếu với hồ sơ lưu ở Nha khảo thí .Thời đó, các kỳ thi được tổ chức rất nghiêm túc, nên không thể có chuyện mua giám khảo hay chủ khảo. Cách duy nhất để có một tấm bằng Tú tài hợp pháp, chỉ còn là cách , tìm các sinh viên học giỏi để thuê họ đi thi hộ. Tất nhiên , với những sinh viên này, việc làm tốt những bài thi Tú tài là nằm trong tầm tay.

Đối với tổ chức thuê người đi thi , thì tìm được đối tượng nhận lời thi thuê cho mình là vấn đề quan trọng hàng đầu. Đó phải là một sinh viên giỏi, đã đành, nhưng đặc biệt là phải lanh lợi, có khả năng đối phó với sự cố, hoàn toàn có thể xảy ra.
Tất nhiên tiền thuê sẽ rất cao, song thuyết phục đối tượng gạt bỏ được những e dè, lo ngại là điều không đơn giản.
Trước hết đây là một việc làm không hợp pháp. Nếu bại lộ, hậu quả sẽ khó lường. Yếu tố khiến chúng tôi yên tâm là đã có nhiều người bạn từng mạo hiểm và đã thành công. Với máu nóng tuổi trẻ, chúng tôi tán thành cách nghĩ mà nhà mô phạm Nguyễn Bá Học đã viết trong luân lý giáo khoa thư: “… ở đời,muốn thành công phải có tinh thần mạo hiểm, không thể cứ ngồi đó mà chờ thời, đợi số”
Về phương diện đạo đức, chúng tôi thừa biết rằng nếu nhận lời đi thi thuê để nhận một số tiền, thì rõ ràng đã vi phạm lẽ công bằng. Tuy nhiên, trong cái bối cảnh xô bồ ở thời điểm đó, cộng  những nhu cầu cơ bản mà cuộc sống thiếu thốn của đời sinh viên đặt ra, chút ý thức đạo đức ấy chỉ gợn lên rồi lịm tắt.
Vả chăng, từ trước đến nay, chúng tôi cũng không mấy tin tưởng vào lẽ công bằng của cuộc sống. Trước mắt , đời sống đô thị hàng ngày như một minh chứng cho sự bất công, đang đầy dẫy ngoài xã hội. Hơn nữa, chúng tôi cũng tự an ủi rằng việc làm của mình cũng có điểm tốt, đó là  chỉ làm lợi cho người khác, chứ chẳng làm hại ai.
Với một tâm trạng như vậy, chúng tôi đã không quá e dè với việc thi mướn.
           Một  buổi sáng mùa hè năm 1968, tôi được bạn bè giới thiệu làm quen với anh Lê KH. Bạn tôi cho biết anh KH là một giáo sư dạy toán nổi tiếng, nhưng lại đang cầm đầu một tổ chức thi mướn ở Sàigòn. Anh KH tiếp cận tôi vồn vã và đề nghị tôi đi thi hộ bằng Tú tài I cho một đứa em. Thấy tôi ngần ngại, anh thuyết phục: “ Em đừng lo. Tất cả giấy tờ thủ tục đã có người lo hết. Em chỉ việc đến ngày vào thi, chờ có bảng là lãnh tiền.Trình độ của em là Tú tài toàn hạng bình thứ, mắc mớ gì Tú tài bán không đậu. Bảo đảm an toàn 100%”
Tôi đang thắc mắc không rõ nếu đậu, thì sẽ được nhận bao nhiêu tiền. Anh biết ý, nói giọng chắc nịch: “ nếu thi đậu ,em sẽ được nhận ba chục ngàn không thiếu một xu. Anh chịu hoàn toàn trách nhiệm.” Trời đất! tôi đang ở trọ mỗi tháng 1200 đồng mà lo muốn bở hơi tai. Vậy mà chỉ “làm việc” cho có hiệu quả trong vài ba ngày, thì có ngay một số tiền để có thể  trang trãi gần hai năm ở trọ. Tôi nhớ một câu ca dao ở quê tôi, mà chúng tôi nghe người ta dùng để mỉa mai bọn trộm cắp:
Con ơi học lấy nghề cha
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Thì ra đi thi mướn, lợi nhuận có thua gì ăn trộm. Mà đâu phải là ăn trộm thứ thiệt đâu cơ chứ.
Vậy là tôi quyết định ngoéo tay anh LÊ KH, và sau đó vác bút đi thi.Đúng như anh Lê KH đã hướng dẫn, mọi thủ tục đều vượt qua một cách dễ dàng. Anh đưa tôi một thẻ học sinh mang cái tên Hùynh Văn Tuấn xa lạ, nhưng hình dán trên thẻ là của tôi, có đóng dấu giáp lai đỏ chót. Buổi sáng thi môn Việt văn, không có vấn đề gì. Hai thầy giám thị xem xét thẻ học sinh của các thí sinh kỹ lưỡng, đối chiếu với hình dán trên phiếu báo danh cẩn thận, trước khi phát bài thi. Văn là một trong những môn sở trường của tôi, nên quả thật là tôi đã làm như máy. Tôi nộp bài trước thời gian quy định và  ra về thơ thới hân hoan. Các môn khác cũng đều như vậy, cho đến buổi thi cuối cùng, là môn vạn vật.
Đang ngồi làm bài thi, tôi bỗng có cảm giác là lạ. Ngước mắt nhìn lên, tôi cảm thấy xây xẩm mặt mày. Trước mặt tôi là thầy Nguyễn Văn T, quần tây, sơ mi trắng dài tay, cravat đỏ sậm, mặt mày nghiêm nghị rất oai vệ trong vai trò giám thị hành lang. Thầy T là giáo sư lý hoá kiêm giáo sư cố vấn lớp đệ nhất B, hồi tôi còn học trung học. Vì tôi là học sinh giỏi nhất lớp, nên thầy tỏ ra rất thân tình với tôi. Cơ duyên thế nào mà thày lại được xếp làm giám thị hành lang khu vực tôi đang thi. Thấy người quen, thầy vào lớp và tiến đến bàn tôi. Tôi nín thở, mặt cúi gằm. Thầy lẳng lặng cầm thẻ học sinh của tên Huỳnh Văn Tuấn lên xem xét rồi để xuống. Tôi ngước mắt nhìn thày. Bốn mắt gặp nhau. Thầy khe khẽ gật, có vẻ đã hiểu ra vấn đề, rồi quay lên đi ra cửa.
Tôi cảm thấy bối rối như tơ vò, trong lòng vô cùng hồi hộp. Còn nửa giờ nữa là hết giờ thi. Năm câu hỏi vạn vật, tôi đã làm xong bốn câu, có bỏ cũng cứ đậu. Nếu thày T. lên văn phòng thông báo, thì trong giây lát, cảnh sát sẽ ập vào bắt tôi, môt tên đi thi mướn. Có nộp bài ngay thì cũng không thoát. Nhưng tiếp tục làm bài thì cũng không nổi. Tôi đành ngồi im, làm như đang bí, để chờ động tĩnh. Tôi cũng hy vọng thày T thương tình, thông cảm và không tố giác tôi.Thời gian nặng nề trôi qua trong tiếng đập hồi hộp của trái tim.. Khi tiếng trống báo hết giờ, thì tôi biết rằng mình đã thoát. Quả thực thày T. đã thông cảm với một tên học sinh nghèo đi thi mướn để kiếm cơm.

Sau đó, tôi đã cố nhiều cố gắng đi tìm thày T để …tạ tội và tạ ơn, nhưng thày  tiếp tục đi chấm thi ở tỉnh khác theo sự điều động của bộ giáo dục.
Tôi cũng chuyển ngành và theo học chính trị kinh doanh ở Đàlạt , nên hầu như chưa bao giờ gặp lại thày. Kết quả kỳ thi Tú tài bán năm đó, Huỳnh Văn Tuấn đậu bình thứ, anh Lê KH đã trả cho tôi ba chục ngàn đồng, không thiếu một xu. Tuy nhiên, suốt quãng đời còn lại, tôi chẳng hề kiếm thêm được xu nào từ “công việc”thi mướn.

Thành Nguyễn