Khi có dịp, tôi thường về quê hương Quảng Ngãi, lặng đứng bên cánh rừng Nà hướng nhìn ra biển Minh Tân [Cà Đó], biển Thái Bình Dương [Biển Đông] tưởng nhớ đoạn đời niên thiếu cùng cực ngày xưa, cho dù giờ đây nhiều thay đổi!
Trước mắt tôi là cát trắng lóa lóa, biển xanh mênh mông, phía sau xa tít dãy Trường Sơn rừng già thân thuộc mà lúc nhỏ tôi thường lên đó cắt cỏ, đi củi, đi lá gánh nặng trên đôi vai gầy về chợ chiều Thi Phổ, chợ sáng Đồng Cát, hay chợ sáng Cà Đó bán cho đồng bào dùng đun nấu.
Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư: ba người cùng đi, có một người là Thầy của ta; hơn sáu mươi năm cuộc đời, học làm Người, tôi có nhiều học trò, rất nhiều người Thầy; tôi xin chọn 4 người mang dấu ấn đậm nét với Tôi: Thầy Nguyễn Tấn Thanh, Thầy Phạm Biểu Tâm, Thầy Nguyễn Khắc Minh, Thầy Ngô Gia Hy; trong đó thầy Thanh tôn vinh năm Giáp Ngọ 2014 này.
Ngày ấy, nếu không có Thầy, có lẽ giờ tôi không “khổ” thế này! Mà có khi tôi đã… chết rồi cũng không chừng!...
…Việt Nam ngày ấy chiến tranh khốc liệt, dã man, mọi rợ,.. thế sự khó lường! Lúc đó Ngô Đình Diệm vừa lật đổ Bảo Đại, lên làm tổng thống và chế độ Diệm - Nhu tồn tại, hoành hành, thống trị suốt những năm 1955 - 1963.
Chờ từ năm 1956, 1957 không có tổng tuyển cử như hiệp định Geneve đã quy định, sau hơn hai năm “tập kết” ra Bắc giữa năm 1955 - vì quê tôi; từ phía nam sông Vệ [Mộ Đức] tới Qui Nhơn thuộc vùng tập kết ra Bắc sau cùng.
Năm học 1957 – 1958, tôi xin nhà trường cho đi học lại. Nhưng “quốc gia” họ không cho học, vì lý do “gia đình cộng sản”! Chúng không công khai cấm những “gia đình đít đỏ” như gia đình tôi, nhưng vẫn tạo nhiều rào cản để gây trở ngại cho con đường học vấn của tôi và nhiều người khác. Mà tôi thì đã quá tuổi rồi, nên dù muốn dù không, bằng mọi cách cũng phải cố tìm cách xin đi học tiếp.
Lúc đó, ông Nguyễn Khắc H đang dạy lớp ba, phụ trách trường Tiểu học Đức Phước nói với tôi: “Qua cũng muốn nhận em lắm! Nhưng các thầy ở đây đều biết gia đình em có anh chị đều là cọng sản. Mà chế độ hiện thời là chế độ quốc gia. Thôi em về tiếp tục chăn bò đi, chờ ngày cọng sản về rồi sẽ học luôn thể!”.
Nhà ông H ở xóm Mít [còn gọi là xóm rừng] cách nhà tôi chưa tới một cây số. Thỉnh thoảng tôi thường đi ngang qua con đường cát trắng, trưa mùa nắng nóng phỏng chân không chịu nổi, trước nhà ông Thuông - cha của ông H - để đến khu đất cát trồng thuốc lá và khoai mì của giòng họ tôi. Hai nhà cách nhau khoảng chừng cây số thôi, nhưng biết nhau khá rõ, nên có thể xem như chòm xóm láng giềng. Vậy mà ông H vẫn tàn nhẫn đối xử với “xóm giềng” như thế!
Tôi khóc trong lòng!
Năm sau, năm học 1958 – 1959, tôi lại quần đùi, chân đất đến xin Hiệu trưởng trường Tiểu học Đức Phước, ông Huỳnh Hòa để được đi học tiếp. Ông đang trọ ở nhà bà Liệp cách trường khoảng nửa cây số. Mà ông Liệp thì cũng đi tập kết với anh 6 Chúng của tôi, chỉ bà Liệp và hai cô con gái đẹp ở nhà; Sau khi được hẹn, tới lui chỗ ông Huỳnh Hòa 5, 3 lần. Rốt cuộc rồi cũng bị từ chối phủ phàng và cay nghiệt giống như năm trước!
Trên đường về nhà, đi lang thang ngang qua rừng Nà, mã ông Nhậm, gò cây Găng, nơi ngày ngày tôi thả bò, đá banh, đánh đáo, u mọi, vui đùa với bạn nhỏ chăn bò, sao hôm nay thấy buồn thương, xa vắng lạ!; ngoài trời đang nóng bức, mà lòng tôi sao lạnh ngắt như mùa đông!; chẳng lẻ sự học của tôi chấm hết từ đây?!!!
Trong suốt chặng đường gian nan vất vả, tìm kế mưu sinh và tự học của tôi, không có trở ngại nào có thể cản bước được quyết tâm của tôi, ngoại trừ “quyết định không được học” khủng khiếp và chết tiệt này! Nó như bóng ma khổng lồ, luôn ám ảnh và đè nặng lên đầu óc thơ ngây của tôi ngày đó! Nó đe dọa đến tương lai và vận mạng đời tôi tàn khốc và nghiệt ngã như cuộc chiến năm 1954!
Một buổi chiều năm 1954, máy bay Pháp thả bom lân tinh [bom Napan], bom xăng đặc thiêu rụi xóm nhà thờ Minh Tân, nhiều đồng bào vô tội chết; người bị phỏng được chuyển lên đường Cái Quan, ngang qua xóm tôi, với những võng đan bằng xơ dừa dùng khiêng người bị thương nằm cong queo, bị cháy xém, kêu la rên rĩ, da phồng cháy đen như da heo quay... sống làm sao nổi! Tôi, một kẻ thiếu niên lúc đó, mà luôn phải chứng kiến nhiều cảnh tang thương, đau đớn lòng! Bọn lính có thể bắn người dân chết tươi như chơi một trò tiêu khiển, mà không hề bị xử phạt hay bị kỷ luật. Chúng muốn tha, muốn đánh, bắt bớ, gán tội, đổ tội cho người dân một cách tuỳ ý, vô tội vạ! Bất kể là ngày nào, những người bạn học của tôi, thậm chí những người thân của tôi, bà con, chòm xóm mới vừa gặp hôm nay, hôm sau đã ra mặt trận hoặc chết mất, chết tan thây do đạn bắn trực tiếp, do đạn pháo kích. Trường Nguyễn Công Trứ trở thành bình địa. Cuộc chiến thời đó quá dã man, bất nhân, tàn bạo và man rợ không tưởng tượng nổi! Người lính, thường người Nùng, người Thượng có thể tự nhiên xẻo tai người dân vô tội, rồi xỏ thành xâu để đeo chơi là chuyện bình thường như cơm bữa!
Con đường học vấn của tôi ngày ấy tắt nghẽn một cách dã man như thế!
Khoảng thời gian đợi chờ trong vô vọng đó, có người cháu tên Nguyễn A, ở gần sát bên nhà tôi, tên khai sinh của hắn là Nguyễn Thanh Xuân đang học lớp đệ Thất, trường trung học bán công Nguyễn Công Trứ. A gọi tôi bằng chú họ, mặc dù tôi nhỏ tuổi hơn hắn. Mỗi môn học được hắn viết một tập riêng giấy trắng, láng đẹp hiệu cyclo máy [sướng thấy mồ!] trong đó có môn tiếng Hán. A là con trai duy nhất của anh tôi, hắn học khá, nhưng chỉ học được đến lớp đệ lục thì bỏ ngang để đi học nghề may, có lẽ vì nhà hắn cũng không mấy khá giả! Lúc đó, tôi tự ái mình có “vai vế” lớn trước hắn như vậy mà phải đi hạ mình năn nỉ mượn tập hắn thì kỳ! Nên đợi những lúc hắn không có ở nhà, tôi mới lén lấy mấy quyển vở hắn đang học, coi học tại chỗ, rồi tỉ mẫn chép lên đầy hai bàn tay, để về nhà xem lại, viết ra, rồi cứ thế tự học môn chữ Hán ngày một khá lên; nhờ vậy, sau này không sợ “cô Phương sử, thầy Thư vẻ, Hán thầy Kĩnh!”.
Giòng đời lặng lẽ trôi nhanh, không êm ả với việc chăn bò… Cho đến một ngày kia, năm 1960, vào một buổi chiều giáp tết Nguyên Đán, lúc tôi đang ngồi vắt vẻo hai chân bỏ một bên lưng của con bò đực lông vàng u lớn, theo sau là con bò lông màu trắng nổi tiếng hung bạo nhất làng để thả bò ngoài “rừng nà” về thì gặp một người cháu họ xa là Nguyễn Hơn - Hơn tuy vai cháu nhưng lớn tuổi hơn tôi, ở cách nhà tôi chừng nửa cây số - Hắn phấn khởi khoe:
“Có ông Thầy hiệu trưởng của trường Tiểu học Đức Phước mới về, Ông tên Nguyễn Tấn Thanh. Ông ấy chịu cho tui đi học rồi, dưới cái tên là Nguyễn Toại! Đã quá chú ơi!”.
Tôi nghe vậy vừa mừng vừa lo! Về tới nhà, lúc mọi người đang ngồi quây quần chung quanh cái nong lớn đặt ngoài sân đất để ăn củ mì độn một ít cơm trừ bửa tối, tôi liền xin cha cho tôi được đi học tiếp, mà học lớp Nhất [lớp năm] giống như Hơn! Cha mẹ tôi đồng ý, nhưng ông ngại tôi nghỉ học lâu, mà lúc trước tôi chỉ mơ được học lớp bốn; trong khi năm học lớp năm này cũng đã hơn một học kỳ rồi, nên sợ tôi theo không nổi! Tôi đành cắn răng cắn lưỡi âm thầm tiếp tục tự học, thậm chí được học dự thính... ngoài sổ của lớp!
Sau đó, thầy hiệu trưởng Nguyễn Tấn Thanh biết chuyện của tôi, mới cho cả hai – tôi và Toại – được dự thi tốt nghiệp Tiểu học; Thầy đích thân chạy lo thủ tục, nộp đơn cho hai đứa được thi, trong khi các bạn khác trong lớp đều được xét tốt nghiệp chứ không phải thi. Điều kiện “thủ tục đầu tiên” để chúng tôi được thi là phải có giấy khai sinh mới. Thầy Thanh hướng dẫn chúng tôi vào huyện Mộ Đức xin Tòa án cấp Thế vì khai sinh cho hai chú cháu. Khai sinh Nguyễn Toại sinh năm 1949, của tôi sinh năm 1948, mà như vậy thì hơi bị... già để được đi học. Cũng may, năm 1964 có trận lụt rất lớn, lấy cớ khai sinh của tôi bị thấm nước ướt mất, tôi mượn giấy khai sinh bản chính ở trường do thầy Danh quản lý đem về nhà, rồi cạo sửa số tám thành số chín, tức là tôi cũng sinh năm 1949 giống như Toại; nhờ sửa năm sinh, thoát được đôn lính sau này.
Chính thầy Thanh xin cho chúng tôi đi thi Tiểu học tại trường Nam Tiểu Học, tận thị xã Quảng Ngãi mà tôi được biết trường Trần Quốc Tuấn kế bên, để thi và học bậc trung học sau này. Chính vào thời điểm đó, ngay khoảnh khắc đó, tôi cực kỳ hạnh phúc và cực kỳ xúc động! Hạnh phúc nhất trần đời, vì không có gì diễm phúc hơn được tiếp tục đường học vấn, cho dù có phải trải qua trăm cay ngàn đắn, ngán gì nhiều lần thi cử, miễn được học tiếp, tôi vẫn cam tâm! Cực kỳ xúc động, vì thầy Nguyễn Tấn Thanh là vị cứu tinh vĩ đại nhất của đời tôi, mà tôi hằng nhớ ơn trời biển cao cả cho đến bây giờ và mãi mãi về sau!
Tết năm đó tôi đi cùng các bạn ra thăm, chúc Tết gia đình Thầy, nhà Thầy phía ngoài sông Vệ, mãi tận xã Tư Hòa, cách thị trấn Sông Vệ khoảng ba cây số phía Đông, mà sao thấy xa lạ quá; đoàn đi khoảng 8, 9 học sinh, cách nhà hơn 10 cây số, đi từ sáng sớm mãi gần trưa mới tìm được nhà Thầy,nhà Thầy khá hoành tráng, lợp ngói đỏ, mái bằng; không như nhà trong quê tôi đều nhà tranh vách đất, nhà thấp lè tè, khuất sau lủy tre làng; Thầy dẫn những bạn biết bơi, lúc nhỏ cho chuồng chuồng cắn rốn, ra tắm bên dòng sông Vệ hiền hòa, Thầy dạy phương pháp bơi trên cạn, dưới nước, bơi ếch, bơi bướm…,trong khi từ nhỏ tôi chỉ biết bơi chó, mỗi khi nắm đuôi bò học bơi khi nước lớn; sau này khi vào Saigon học bơi hồ bơi Cứu hỏa, mới biết bơi trên khô. Thầy thật tuyệt vời!
Sau khi đậu Tiểu học, hai chú cháu tôi đều đậu vào lớp đệ thất trường Trần Quốc Tuấn năm 1961. Rồi tôi lên đệ tam, lên đệ nhị, thi tú tài bán phần đậu hạng bình [hạng tối ưu không có ai]. Cả khối lớp tôi chỉ có Dương Minh Chính là đậu hạng ưu, còn lại năm ba đứa là hạng bình, trong đó có tôi. Lúc tôi thi vào đệ thất thì tôi đứng thứ nhì trong số mấy trăm thí sinh thi vào trường Trung Học Trần Quốc Tuấn là trường công duy nhất thời đó; Tôi chỉ đứng sau Phan Thông là thủ khoa, vì hắn đậu hạng nhất. Khoảng thời gian này, ngoài giờ học, tôi phải cày mướn suốt cho người ta khi học lớp Đệ nhị. Lúc chuẩn bị thi Tú tài bán phần [tú tài I] ở trọ nhà của bác Kẹp. Bác Kẹp quê ở Ba La là một nhà giàu mới, chủ lò gạch, cửa hàng tạp hóa, sát bên khách sạn Cộng Hoà, nơi phòng mạch tư bác sĩ Hoàng Trọng Văn, chiều chiều nhìn bệnh nhân được khám, mà sau tôi chọn học y, một nghề giúp xoa dịu mỗi đau người bệnh. Tôi ở để giúp con bác Kẹp học cùng lớp đệ nhị, để không phải đóng tiền chợ, để chỉ nộp mỗi ngày hai lon gạo, khỏi tiền chợ; gạo được mang từ quê tận xóm Lương Nông đã giải phóng hơn bảy năm, năm đệ nhất tôi không ở đó nữa, vì cực quá! mà chở củi tự nấu cơm ăn, mãi tận trên nhà thương, cách Trần Quốc Tuấn hơn 2 cây số - Thường tiền nhà trọ, mỗi tháng khoảng 200đồng cộng 60 lon gạo; nếu không đem gạo thì đóng 400 đồng [trị giá tương đương bốn gánh lúa] - Tôi đã sống cực kỳ kham khổ chỉ để không gián đoạn việc học [*].
Mỗi tuần một lần, tôi đạp xe hai mươi cây số về thăm nhà và Mẹ bằng xe đạp chân, rất thể thao, chứ không phải loại xe đạp điện chạy ào ào như bây giờ. Mà đường xá thì gồ ghề với vô số những viên đá cuội nằm lung tung kêu lạo xạo dưới mỗi vòng bánh xe lăn qua; Ổ gà, ổ voi là chuyện bình thường, ngồi trên xe đạp mà nhiều lúc như cưỡi ngựa, hai tay khoanh trước bụng. Cũng vì đường gập ghềnh chông chênh mà xe đạp thì cũ nên hay tuột dây sên, mỗi lần như thế tôi phải bước xuống gắn lại, gắn xong thì tay dính dầu nhớt lấm lem khổ sở, giữa đường giữa xá không có giẻ hay giấy gì để lau chùi, tôi thường nhặt hoặc bứt mấy chiếc lá vàng bên đường lau tạm. Có khi xe cũ nên hay tuột con cóc, cứ chạy được một đoạn đường thì nhảy xuống đá vài đá cho nó [con cóc] bung ra rồi leo lên đạp tiếp.
Đa số các bạn trong lớp tôi do tình hình chiến tranh đều đi học trễ, nhưng hình như tôi trễ nhiều hơn họ nên thường được nể nang hơn do việc học tốt và những trò kể chuyện tiếu lâm, nghịch ngợm trong lớp thì khỏi chê! Ngay cả chuyện dùng cây khoai mì xỏ ngang chân chị Nga Ph. Tôi chưa được làm mà chịu tiếng oan. Họ nói tôi có đôi mắt tinh anh nhưng dáng đi khật khừ như... gấu! Bản tính không tốt của bốn thầy trò Đường tăng đều là thuộc tính trong tôi, nhất là Trư Bát Giới, với câu nói ấn tượng “các em không chịu, má chịu đi thôi!” trong chương Tam Tạng chẳng quên Đạo, Tứ Thánh thử lòng Thiền.
Tôi hãnh diện mình là người Mộ Đức, Quảng Ngãi. Vì học sinh Quảng Ngãi, trong đó có nhiều người Mộ Đức học rất giỏi. Không ít người ở Mộ Đức sau này đã trở thành cán bộ cấp cao của nhà nước, hoặc trở thành các tướng lĩnh khét tiếng của quốc gia; Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ với học hàm, học vị cao, giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước và danh tiếng lẫy lừng. Rất nhiều danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, đơn cử một vài vị như Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Thượng tướng Trần Nam Trung, Nhà văn Thanh Thảo, GS.TS. Nguyễn Thược, GS.TS.BS Nguyễn Thị Kê, PGS.TS. Trịnh Sâm; Gs Nguyễn Văn Hàm, Gs Lê Quang Chưởng, Gs Nguyễn Diễn ... và hôm nay thêm vào có… tôi!
Nếu không có Thầy, tôi đã chết từ lâu!
Thầy đã tái sinh cho tôi sống lại lần thứ hai - một cuộc đời đầy ý nghĩa!
Dù rằng những lo toan bộn bề cuộc sống đôi lúc có choáng hết tâm tư, dù những vất vả thăng trầm của dòng đời muốn tôi quay cuồng theo nhịp đập bản năng, thì ký ức tôi vẫn luôn hiện hữu hình bóng người thầy cho mãi đến bây giờ! Mỗi khi chợt nghe tiếng “thầy” đâu đó quanh đây, mỗi khi học trò của tôi kêu gọi tiếng “thầy” thì ký ức ngày xưa về thầy trở nên sống động! Nó thôi thúc mãnh liệt, nó hóa thành ngọn đuốc lớn cháy sáng, rực sáng tim tôi!
Từ một người học trò nghèo khó, vừa chăn bò, cắt cỏ, cày bừa; cùng cực vất vả mưu sinh, sau nhiều phấn đấu vươn lên có ngày nay. Nguyễn Văn Chừng được như ngày hôm nay – cống hiến hết mình cho xã hội và quê hương đất nước. Cống hiến cả cuộc đời cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chăm sóc sức khỏe nhân dân đều nhờ vào công ơn trời biển của thầy! Cả cuộc đời và sự nghiệp của tôi có được như ngày hôm nay đều nhờ ở cái tâm của thầy – cái tâm của một vị phật sống!
------------------------------------------------
(*): xem “Kỳ Nhân” - Hồi ký của Nguyễn Văn Chừng – XB năm 2014.
Xuân Giáp Ngọ,