Nhóm Ngũ Hổ : Nguyễn Văn Chừng- Dương Minh Chính- Lê Văn Công
Lê Sơn- Nguyễn Văn Thanh.
Là người dân Quảng ngãi, một số trong chúng ta từng có dịp nghe qua, những huyền thoại về mả Lùm của tộc họ Trương ở Mỹ Khê, cùng với câu sấm ký: “Tứ đại công hầu nhất đại vương”
Những nội dung bí hiểm đó dính líu đến một nghi án tầy đình, mà người liên quan chính là Thái sư, Cần chánh điện Đại học sĩ, Tuy thạnh quận công Trương Đăng Quế, vị cố mạng lương thần đã từng phò bốn đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, với những đóng góp ấn tượng về mọi mặt:chính trị, quân sự ,kinh tế, văn hoá, cho đất nước.
Trương Đăng Quế (1793-1865) quê làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh, phủ Quảng ngãi. Đậu Cử nhân khoa thi năm thứ 17 đời Gia Long( 1819). Đã lập nhiều công lớn dưới triều vua Minh Mạng (1790-1840). Được Minh Mạng phong Hiệp biện Đại học sĩ, Binh bộ Thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần và thác cô phò tá Hoàng thái tử Miên Tông lên ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Dưới thời Thiệu Trị, TĐQ là phụ chánh đại thần, Binh bộ Thương thư sung cơ mật viện, gia phong Văn Minh điện Đại học sĩ.
Trước khi băng hà, vua Thiệu Trị (1807-1847), đã uỷ thác cho bốn vị đại thần là: Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tuân thủ di chiếu, phò tá Phước Tuy Công là hoàng tử Hồng Nhậm lên nối ngôi vua , lấy niên hiệu là Tự Đức.
1- NGHI ÁN TẦY ĐÌNH: ÂM MƯU SOÁN ĐOẠT NGÔI BÁU.
Sau khi Tự Đức lên ngôi năm 1847, trong dân gian ở kinh thành Huế đã rộ lên một luồng dư luận: vua Tự Đức không phải là con của vua Thiệu Trị, mà đích thực là con ruột của Trương Đăng Quế. Luồng dư luận không có gốc rễ đã lan truyền hết sức nhanh chóng, không chỉ ở kinh thành mà còn đến cả các tỉnh xa xôi.
Người ta cắt nghĩa thông tin này như sau: Trương Đăng Quế là một quyền thần, không khác gì Đổng Trác hay Tào Tháo đời Hán bên Trung Quốc, ra vào nơi cung cấm như ở nhà riêng, lợi dụng sự yếu đuối của vua Thiệu Trị, đã tư thông với Hoàng Hậu Từ Dũ và sinh ra hoàng tử Hồng Nhậm, tức vua Tư Đức.Chính vì vậy mà Trương Đăng Quế đã tìm cách gạt bỏ An Phong Công Hồng Bảo là anh vua Tự Đức, để tìm cách đưa Tự Đức lên ngôi.
Vua Tự Đức
Một luồng dư luận khác, cho rằng Trương Đăng Quế (TĐQ) đã tìm cách tráo người: vì Hoàng hậu Từ Dũ và vợ TĐQ sinh cùng ngày, nên TĐQ đã bỏ con sơ sinh của mình trong tay áo thụng, vào cung tráo đổi con trai mình là Trương Quang Đản vào chỗ Hoàng tử Hồng Nhậm. Nhiều người trông thấy nhưng vì sợ quyền lực của TĐQ, nên không dám hé răng.
Những lời đồn đại này đã sống mãi với thời gian và thậm chí đã đi vào các tư liệu của ngành truyền thông ở thế kỷ 20.
Chúng ta thấy chúng xuất hiện trong một bài viết ở tạp chí Phổ Thông năm 1960.
“Theo lời truyền khẩu, vua Tự Đức là conTrương Đăng Quế do tư thông với bà Từ Dũ”
(Nguyễn Quang - Giặc Chày Vôi- Tạp chí Phổ Thông số 32-Sàgòn 15/04/1960
Sau đó, năm 1973, luận điểm này xuất hiện trong tác phẩm “Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế”, mà tác giả là Hoàng Trọng Thược:
“ Tương truyền rằng Hồng Nhậm,(sau này là vua Tự Đức) là con Trương Đăng Quế,, lúc bấy giờ là một quyền thần rất có thê lực, lại là chồng của một bà công chúa em vua Thiệu Trị, nên xuất nhập bất cấm ở cung điện nhà vua. Nhân dịp hoàng hậu Từ Dũ và vợ Trương Đăng Quế sinh con cùng ngày, nên TĐQ đã lợi dụng sự bất cấm ấy, đem con trai mình tên là Trương Quang Đản, giấu trong tay áo thụng, đánh lộn sòng với con trai vua Thiệu Trị. Trong hàng ngũ nội giám và thị nữ trong cung,có người hay chuyện, nhưng không ai dám hé môi vì sợ Quế hãm hại. Có lẽ đây cũng là duyên cớ mà Đoàn Hữu Trưng vin vào để tổ chức lật đổ vua Tự Đức và lập con Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngôi..”
( Hoàng Trọng Thược- Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế - 1973.)
Thậm chí, ngay cả các nhà làm từ điển cũng đã đưa các chi tiết này vào từ điển Nhân vật lịch sử Việt nam
”Dư luận đương thời cho rằng Trương Quang Đản là con vua Thiệu Trị, còn vua Tự Đức chính là con của Trương Đăng Quế do tư thông với bà Từ Dũ’’
(Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học xã hội ,1991)
Nếu đó là sự thật và được điều tra làm rõ, thì chắc chắn TĐQ sẽ bị buộc vào tội âm mưu soán đoạt ngôi vua, và theo bô Hình Luật Gia Long, thì đây là đại trọng tội, đứng đầu trong thập ác, trời không dung, đất không tha. Chắc chắn TĐQ sẽ phải đối diện với án phạt xử lăng trì và tru di tam tộc.
Và nếu như đó là sự thật, thì dù TĐQ có quyền thế đến đâu, cũng chỉ có thể tự bảo vệ đến hết đời mình, hoặc cùng lắm là hết đời vua Tự Đức. Bởi vì sau vua Tự Đức, còn đến 9 đời vua và vương triều Nguyễn vẫn tiếp tục tồn tại 62 năm nữa. Chẳng lẽ 9 đời vua, với thời gian 62 năm, không có lấy một vị quan nào có đủ năng lực điều tra để làm sáng tỏ một nghi án tày đình, từng ảnh hưởng đến uy tín, đe dọa sự tồn vong của cả một vương triều?
Dù sao, thì nghi án lịch sử này đã bao trùm lên dư luận hàng trăm năm, và ở một chừng mực nhất định, đã tác động đến sự nhìn nhận của giới chức có trách nhiệm về văn hoá, ở các thế hệ sau này.
Một hậu quả cụ thể nhất, có thể là do bị tác động bởi cái nghi án tầy đình đó, mà mãi đến nay, giới chức có trách nhiệm về văn hoá của nhiều địa phương, kể cả Quảng Ngãi - quê hơng của TĐQ- vẫn còn ngần ngừ, không chịu lấy tên TĐQ để đặt tên cho bất cứ một con đường nào của các địa phương đó, trong khi thành phố Hồ Chí Minh đã làm việc này từ lâu: đó chính là con đường Trương Đăng Quế nối liền hai quận Gò Vấp và Bình Thạnh.
Thái độ của nhà chức trách tại các địa phương kia, được cắt nghĩa ra sao?
Cũng giống như trường hợp của Thái sư Trần Thủ Độ, cho đến nay, tại thủ đô Hà Nội vẫn không thấy một con đường nào mang tên người đã sáng lập nhà Trần, và từng là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất.
Người ta cho rằng Trần Thủ Độ là một con người có tài nhưng không có đức. Để đạt được mục đích, ông đã không từ một thủ đoạn nào. Ngoài âm mưu cướp ngôi nhà Lý, ông đã có thủ đọan độc ác khi tiêu diệt toàn bộ hoàng thân quốc thích của nhà Lý. Để bảo vệ vương triều Trần, ông chủ trương cho phép sự loạn luân trong dòng họ Trần, bắt ép Trần Cảnh lấy chị dâu đang mang thai.
Ở một góc độ nhất định, thái độ của các nhà văn hoá đời sau đối với Trần Thủ Độ, là hoàn toàn có thể chấp nhận. Bởi chuyện Trần Thủ Độ âm mưu và hành động cướp ngôi nhà Lý là có thật. Trần Thủ Độ giết toàn bộ hoàng thân quốc thích họ Lý là chuyện thật. Trần Thủ Độ chủ trương loạn luân và ép Trần Cảnh lấy chị dâu Thuận Thiên công chúa ( vợ An sinh vương Trần Liễu) cũng là chuyện có thật, đã được ghi vào sử sách.
Song trường hợp của Trương Đăng Quế thì lại hoàn toàn khác hẳn, khi những nghi án về ông vẫn chỉ là những lời đồn đại, cho đến mãi tận ngày nay.
Mặc dù tình trạng mơ hồ trong kiến giải về một ẩn số lịch sử, cho đến nay, vẫn rất ít người đặt ra vấn đề, phải đưa các nghi vấn đó ra trước ánh sáng phán quyết của công luận. Điều này là phi lý, bởi lẽ một nghi án có ảnh hưởng đến cả sự tồn vong của vương triều Nguyễn, và uy vọng của một con người từng có những đóng góp lớn lao cho đất nước như TĐQ, thì không thể để chìm vào sự im lặng đáng sợ, hàng trăm năm như vậy.
Lăng Tự Đức
2- ĐI TÌM SỰ THẬT LỊCH SỬ.
Tuy nhiên, đi tìm sự thật về một nghi án đã diễn ra gần 200 năm, là một công việc cực kỳ khó khăn. Đối với nhà nghiên cứu đời sau, những gì còn lại của nghi án chỉ là những tài liệu lịch sử. Muốn có một thái độ khách quan phù hợp với yêu cầu tìm kiếm sự thật thì phải vận dụng hai yếu tố:
- Các tư liệu lịch sử phải mang tính khoa học: khách quan và trung thực.
- Sự vận dụng tư duy phải mang tính logic.
Từ các tư liệu lịch sử mang tính khoa học, các nhà nghiên cứu sẽ xây dựng nên những luận điểm tán đồng hay bác bỏ các giả thuyết của nghi án.
Trong tinh thần đó, căn cứ vào những chứng cứ được rút ra từ các tài liệu đã được thẩm định của Quốc sử quán triều Nguyễn, chúng ta có thể xây dựng nên luận cứ để giải mã những lời đồn đại trong nghi án:
1/ TĐQ có thể nào tư thông với Hoàng Hậu Từ Dũ để sinh ra vua Tự Đức?
Đại Nam thực lục chính biên ghi rõ: vua Tự Đức sinh ra vào ngày 25 tháng 8 năm Kỷ sửu tức năm Minh Mạng thứ 10(1829).
Như vậy, nếu như việc tư thộng giữa TĐQ và Hoàng hậu Từ Dũ là có thật,như lời đồn đãi, thì sự kiện này bắt buộc phải xảy ra trước năm 1829.
Thời điểm 1829 , Trương Đăng Quế 36 tuổi, đang giữ nhiệm vụ Đông cung Bạn Độc, hàm ngũ phẩm, chỉ là một thầy giáo của các Hoàng tử, sáng đến cung Học giảng sách, chiều phải rời khỏi cung, không có chức quyền gì khác. Cung Học, như sơ đồ hoàng cung còn lưu lại, là một cung điện thiết kế đơn giản, nằm ở phía tây nam hoàng thành, nằm ngoài và hoàn toàn cách biệt với Tử cấm thành. Cung Học được thiết kế dành riêng cho việc học tập, vui chơi của các hoàng tử.
Còn Tử cấm thành là gì? Là thành cấm màu tía. Màu tía là màu áo của các quan lại của triều đình. Đây là khu vực riêng tư của nhà vua, chỉ có thân nhân của vua, cung nữ và thái giám. Các quan lại tuyệt đối không được xâm nhập, nếu không muốn bị mất đầu.Ngay cả cha mẹ của các vị phi tần trong cung vua, cũng không được phép vào thăm con, ngoại trừ những trường hợp có phép đặc biệt của vua. Khi đó, cha mẹ của các vị phi tần này cũng chỉ được gặp con qua sự ngăn cách bởi một bức rèm, dưới sự giám sát của thái giám Tổng quản và Tôn nhân phủ.
Rõ ràng, với vai vế và phẩm hàm khiêm tốn như vậy ở thời điểm trước 1829, TĐQ hoàn toàn không thể là một quyền thần mà có thể ra vàoTử cấm thành như ra vào nhà riêng của mình, để tư thông với các vương phi, như dư luận gán ghép. Ngay cả năm 1830, tức một năm sau khi Tự Đức ra đời, TĐQ bước ra chính trường, thì chức vụ đạt được mới là chức Tả thị lang bộ Công, tương đương chức Thứ trưởng ngày nay, thì cũng chỉ là một quan chức trung bình, có thể nào so sánh với một quyền thần như Đổng Trác hay Tào Tháo?
Còn thời điểm đó, thì Từ Dũ, nhủ danh Phạm Thị Hằng, con gái của Lễ Bộ Thượng thư, Cần chánh điện Đại học sĩ Phạm Đăng Hưng, đang là con dâu trưởng của vua Minh Mạng, vương phi của Hoàng thái tử Miên Tông, mới có 18 tuổi, trẻ đẹp, sống cấm cung dưới những điều lệnh kỷ cương chặt chẽ của cung đình MInh Mạng. Mỗi bước chân của vương phi đi lại trong cung hay ra ngoài, luôn phải tuân thủ các điều lệnh nghiêm ngặt ở Tử cấm thành.
Với hoàn cảnh và điều kiện như vậy, thì việc gặp mặt giữa Trương Đăng Quế, một vị sư phó dạy các Hoàng Tử, và Phạm Thị Hằng(sau này là Từ Dũ), một vương phi của thái tử, đã gần như không thể nào thực hiện được, chứ đừng nói gì đến việc tư thông.
2/ Có thể nào thực hiện việc đánh tráo ấu chúa ?
Trương Quang Đản sinh năm 1833, chứ không phải là 1829. Vậy khi Tự Đức sinh ra thì Trương Quang Đản chưa hề chào đời.
Vả chăng, giả định là có một Trương Quang Đản sinh cùng ngày với hoàng tử Hồng Nhậm đi nữa, thì làm sao một ông thầy dạy các hoàng tử, một vị quan chỉ mang hàm ngũ phẩm, lại có thể đi vào Tử cấm thành để thực hiện thủ đọan tráo đổi một đứa bé sơ sinh? Mà đứa bé sơ sinh ấy là ai? Là con trai do vương phi chính thức của Hoàng thái tử sinh ra, cháu nội trai của đương kim Hoàng đế, mà cả hệ thống cung đình nổi tiếng nghiêm cẩn như cung đình Minh Mạng đang chăm chú theo dõi như một sự kiện trọng đại của hoàng cung. Hệ thống đó có thể nào không biết hoặc nhắm mắt làm ngơ?
Thành ra, câu chuyện bỏ đứa bé sơ sinh vào tay áo thụng, đi vào cung để tráo đổi một đứa bé sơ sinh khác, có lẽ đến từ óc tưởng tượng của người bịa chuyện, sau khi đọc những câu chuyện hư cấu trong truyện Tàu Đông Chu liệt quốc.
Luận điểm về việc tráo đổi ấu chúa nêu ra trong “Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế” của Hoàng Trọng Thược đã bị bác bỏ hoàn toàn khi tra cứu gia phả Trương Đăng Quế: TĐQ không hề có bà vợ nào là em ruột của vua Thiệu Trị.
Và như vậy, chỉ những ai không biết rõ diễn biến cuộc đời TĐQ và các luật lệ cung đình nghiêm khắc thời MInh Mạng, mới có thể tin vào những lời đồn đại về gốc gác của vua Tự Đức.
3/ Nhân thân của một nghi can
Với nguyên tắc tư pháp:án tại hồ sơ, với hồ sơ liên quan được thẩm định qua thời gian, thì cái nghi án tày đình về vua Tự Đức, đã được lý giải bởi những luận cứ chặc chẽ hết sức thuyết phục.Tuy nhiên, dù muốn hay không, dư âm của nghi án vẫn còn đọng lại một nỗi ám ảnh kéo dài. Ám ảnh đối với người trong cuộc là bản thân vua Tự Đức, Trương Đăng Quế và cả triều đình. Cuối cùng là nỗi ám ảnh đối với các nhà sử học đời sau.
Cũng theo nguyên tắc tư pháp, mặc dù các luận điểm chứng minh sự trong sáng của Trương Đăng Quế có thuyết phục đến đâu, thì yếu tố thuyết phục nhất cũng không hoàn toàn nằm trong luận điểm, mà chính là nằm ở tính cách con người Trương Đăng Quế. Thuật ngữ tư pháp gọi đó là nhân thân.
. Nghi án tầy đình này không khỏi khiến ta liên tưởng đến vụ án”buôn vua”của Lã Bất Vi thời chiến quốc, từng được mô tả tỉ mỉ dưới ngòi bút của sử gia lừng danh Tư Mã Thiên.
Nếu so sánh giữa hai con người cùng bị cáo buộc vào một trọng tội tương đương trong lịch sử, thì ta sẽ thấy rằng có sự khác biệt lớn lao về nhân cách giữa Lã Bất Vi và Trương Đăng Quế, đến nỗi gần như tương phản.
Là một con buôn, Lã Bất Vi đã nhìn ngai vàng như một món hàng, cho nên bất chấp thủ đoạn, tìm cách đưa dòng dõi của mình lên ngôi để trục lợi. Khi đã thành công trong thủ đoạn, Lã Bất Vi đã cố sống cố chết bám lấy quyền lực, để hưởng thụ sự giàu sang phú quý, cho đến khi phải chết vì chính lệnh của con ruột mình.
Ngược lại, Trương Đăng Quế là một nhà nho, một kẻ sĩ, đã cúc cung tận tụy phục vụ triều đình và đất nước, cho nên rất khó lòng có được cái tâm cơ và xảo thuật của Lã Bất Vi. Ngay cả khi đang đứng trên đỉnh cao danh vọng, ông vẫn nằng nặc từ bỏ, để xin cáo lão về quê, trở lại với cuộc sống bình thường của một nhà nho thanh bạch. Một con người với nhân cách và phương thức hành xử như vậy, có thể nào là một kẻ buôn vua bán nước, và buôn vua bán nước để mưu tìm cái gì?
4/ Vì đâu TĐQ trở thành nghi can trong vụ trọng án lịch sử
Thế nhưng, để sáng tỏ vấn đề, thì một câu hỏi không thể không đặt ra: vậy ai là tác giả những luồng dư luận vu cáo TĐQ, và với mục đích gì?
Câu trả lời không khó, nếu xem xét lại quá trình lên ngôi của vua Tự Đức.
Vua Tự Đức huý là Hồng Nhậm, là con trai thứ của Thiệu Trị. Con cả Thiệu Trị là Hồng Bảo, bị vua Thiệu Trị đánh giá là ngu độn, không chịu học hành, chỉ ham hưởng lạc. Theo Đại Nam thực lục, thì ngay cả ngày Thiệu Trị hấp hối, Hồng Bảo cũng không có mặt trong cung vì đang mãi vui chơi ở ca lâu.
Vua Thiệu Trị đã di chiếu nhường ngôi cho con thứ Hồng Nhậm và uỷ thác cho 4 vị đại thần là Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp cùng nhau phò tá Hồng Nhậm lên ngôi.
Di huấn của Thiệu Trị cho bốn vị đại thần nêu rõ:
” Ta nối nghiệp lớn đã bảy năm nay, ngày đêm lo lắng không dám thong thả vui chơi, bấy lâu se mình, hôm nay mệt lắm. Ta lo cho nghiệp lớn mà tổ tông đã phó thác nên phải chọn người nối nghiệp để yên bề xã tắc. Trong mấy người con ta, Hồng Bảo tuy lớn, nhưng là thứ xuất (con vợ thứ),mà lại ngu độn ít học,ham chơi, nối nghiệp không được. Con thứ hai là Phước Tuy Công Hồng Nhậm thông minh, ham học, rất giống tính ta, đáng nối nghiệp vua. Hôm trước ta đã phê vào tờ Di chiếu, để trong long đồng.Nay ta giao cho các ngươi niêm phọng lại. Vạn nhất ta có mệnh hệ nào, thì phải lập tức công bố cho thần dân trong ngoài đều biết. Sở dĩ ta cẩn thận chọn người nguyên lương là bởi ý tứ cẩn thận, lo sâu nghĩ xa. Các ngươi đều là đại thần của nước nhà, chịu ân sâu nghĩa nặng, nên đem tấm lòng phò ta mà giúp tự quân. Các ngươi phải kính cẩn, đừng trái mệnh ta.”
Ngày 04-11-1847,nhằm ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, vua Thiệu Trị băng hà. Các đại thần và bá quan văn võ đọc di chiếu của Thiệu Trị tại điện Cần Chánh, truyền ngôi cho Hồng Nhậm, cùng phò tá Hồng Nhậm lên ngôi, niên hiệu là Tự Đức.
( Đại Nam thực lục chính biên tập 6-Trang 1074)
Việc bỏ trưởng lập thứ trong nhiều triều đại thừờng dẫn đến bi kịch cung đình..
Bị mất ngôi, Hồng Bảo vô cùng căm tức, đã câu kết với một số phe cánh và các giáo sĩ Thiên chúa giáo, cùng một số người nước ngoài để tiến hành âm mưu lật đổ. Việc bại lộ, tất cả những kẻ âm mưu đều bị bắt và gia hình. Hồng Bảo được các giáo sĩ người Pháp tổ chức trốn đi Singapore, nhưng không thoát, bị bắt giam vào ngục và sau đó đã tự sát trong ngục..
Chính trong thời điểm tranh chấp cung đình, những luồng dư luận mà mục tiêu là TĐQ đã được tung ra. Phe Hồng Bảo nhận định, TĐQ chính là chỗ dựa vững chắc của Tự Đức. Hạ bệ Trương Đăng Quế sẽ là một mũi tên bắn được hai con chim:
1- Tiệu diệt lực lượng nòng cốt của Tự Đức là TĐQ. Mất chỗ dựa, Tự Đức sẽ dễ dàng bị đánh đổ..
2- Hạ bệ uy tín chính trị của Tự Đức để vận động đình thần truất phế vua, đưa Hồng Bảo lên ngôi. Nếu Tự Đức là sản phẩm của một cuộc tư thông bất chính, thì việc truất phế và tiêu diệt là điều tất yếu mà triều đình bắt buộc phải thực hiện.
Sách Lữ Khôn có câu”Ngôn ngữ chi ác, mạc đại ư tạo vu”
(Nghĩa là: sự độc ác nhất của ngôn ngữ, thì không gì bằng sự vu khống)
Dù âm mưu thất bại, song những đòn phép hiểm độc của phe nhóm Hồng Bảo đã khiến cho triều đình bối rối, và phần nào gây ra khó khăn trong mối quan hệ giữa vua Tự Đức cùng Trương Đăng Quế sau này. Song cái thâm hiểm và độc ác nhất của sự bịa đặt và vu khống, đến từ những tranh chấp quyền lực cung đình, chính là chúng không chỉ tác động đến người cùng thời, mà còn tạo ra một mảng tối của lịch sử.
Lịch sử, như bản chất đặc thù của nó, ở một thời điểm nào đó có thể hàm chứa một dung lượng nhất định của nghi vấn và sự huyễn hoặc. Song thời gian, như một dòng nước, sẽ gột rửa bao lớp phấn son, để trả lại cái dung mạo đích thực của lịch sử
Sách Trương Đăng Quế -Cuộc đời&Sự Nghiệp
( Nhà xuất bản Văn Học -2008)
Nhóm nghiên cứu về TĐQ trước đền thời ngài Bùi tá Hán –TP Quảng Ngãi